Thi thể diễn viên Philip Seymour Hoffman đã được tìm thấy tại căn hộ của anh ở Manhattan, Wall Street Journal đưa tin ngày 2/2.
Nguyên nhân cụ thể dẫn tới cái chết của nam diễn viên 46 tuổi này đang
được điều tra nhưng cảnh sát New York đã xác nhận rằng anh đã qua đời
tại căn hộ ở 35 Phố Bethune, West Village vào sáng ngày 2/2.
The New York Post đưa tin, một người bạn, biên kịch David Katz
đã tìm thấy Hoffman trên sàn phòng tắm vào lúc 11 giờ 30 phút sáng (giờ
địa phương) trong trạng thái đã tắt thở vì dùng thuốc quá liều. Katz cho
biết, Hoffman dự tính phải đón con sáng hôm đó, và khi anh không đến và
không ai liên lạc được với anh, Katz đã tìm đến tòa căn hộ của Hoffman.
Theo đội cảnh sát, Hoffman ở một mình khi qua đời, và một kim tiêm được
tìm thấy vẫn còn chưa được rút ra khỏi cánh tay anh. Trong phòng còn
tìm thấy một phong bì chứa heroin.
“Rõ ràng đây là một vụ dùng thuốc quá liều,” cảnh sát liên quan cho biết. “Kim tiêm vẫn còn đó.”
Vào
tháng 5/2013, có tin cho biết Hoffman đã tự nguyện tham gia một chương
trình cai nghiện các chất kích thích, gồm heroin. Hoffman cũng thừa nhận
từng nghiện ma túy khi còn trẻ, nhưng đã cai nghiện được trong suốt 23
năm trước khi tái nghiện.
Philip Seymour Hoffman tại Liên hoan phim Venice 2012
“Hồi đó là rượu và ma túy, bất cứ thứ gì tôi có thể có được… tôi đều
thích,” Hoffman nói trong một phỏng vấn với CBS vào năm 2006. “Nhưng rồi
tôi đi cai nghiện, tôi cai nghiện năm 22 tuổi. Lúc đó tôi cảm thấy
hoảng hốt, lo sợ cho mạng sống của bản thân. Chỉ có thế thôi.”
“Chỉ
tuần trước thôi, tôi vẫn còn gặp anh ấy, trông có vẻ tỉnh táo như cũ,”
David Katz cho biết. “Tôi tưởng chương đó đã qua rồi.”
Trong số vai diễn còn dở dang của anh khi qua đời gồm
The Hunger Games: Mockingjay Part 1 và
The Hunger Games: Mockingjay Part 2.
Trong hai phim này, anh vào vai người có vai trò quan trọng trong cuộc
cách mạng tại Panem, Plutarch Heavensbee. Anh đã hoàn thành phần lớn
công việc của mình trong phần một, nhưng theo lịch còn phải quay thêm
bảy ngày nữa cho phần phim thứ hai.
The Hunger Games: Catching Fire (2013)
Hiện chưa có tin Lionsgate sẽ dự tính làm thế nào để bù đắp cho một tuần
quay mà Hoffman sẽ không thể hoàn thành. Vai diễn của anh là một nhân
vật khá quan trọng, sau khi được giới thiệu trong
Catching Fire.
Tuy nhiên, đoàn làm phim dự tính sẽ không tìm diễn viên khác thay anh
và việc anh qua đời dự tính sẽ không ảnh hưởng tới ngày ra mắt của
Mockingjay Part 1 và ngày 21/11/2014 và
Mockingjay Part 2 vào 20/11/2015, nhưng có thể khiến phần hậu kỳ của bộ phim thứ hai trở nên khó khăn hơn.
Chiều
chủ nhật hôm Philip Seymour Hoffman qua đời, 100 người đã đến tưởng
niệm anh bên ngoài tòa nhà nơi anh trút hơi thở cuối cùng. Đến 6 giờ 40
phút chiều, thi thể anh được chuyển đi, và cảnh sát đã tạo rào chắn để
ngăn người xung quanh chụp ảnh.
“Anh ấy là người ở đây, anh ấy
là một người dân của khu phố này,” Christian McCulloch, sống gần đó, cho
biết. “Thỉnh thoảng mọi người đều thấy anh đưa các con đi chơi. Anh ấy
luôn rất dễ thương. Đây là điều thật đau buồn.”
Philip Seymour Hoffman nhận giải Oscar năm 2009
Philip Seymour Hoffman sinh ra ngày 23/7/1967, tại Fairport, N.Y., quận
Rochester. Mẹ anh, Marilyn Loucks, nguyên là thẩm phán tòa án gia đình.
Cha anh, Gordon, làm việc cho Xerox Corporation. Cha mẹ ly hôn khi
Philip còn nhỏ và giờ vẫn còn sống. Trong diễn văn nhận giải thưởng
Oscar năm 2006, Hoffman cảm ơn nhiều người, nhưng đặc biệt là mẹ mình,
giờ mang tên Marilyn O’Connor, người cũng có mặt tại buổi lễ. Anh cảm ơn
bà đã nuôi ba anh em anh khôn lớn và đến dự buổi diễn đầu tiên của anh.
“Mẹ hãy tự hào mẹ ạ, vì con tự hào về mẹ, và cả hai ta đều có mặt ở đây, và điều này thật tuyệt.”
Hoffman còn để lại một người anh trai, Gordon, biên kịch
Love Liza,
môt bộ phim năm 2002 do Hoffman đóng vai chính, và hai em gái Jill
Hoffman DelVecchio và Emily Hoffman Barr; người bạn đời lâu năm Mimi
O’Donnell, và ba con của họ, Cooper, Tallulah và Willa.
Với Willem Dafoe, Rachel McAdams, đạo diễn Anton Corbijn tại Liên hoan phim Sundance
Philip Seymour Hoffman, với mái tóc vàng thường rối bù và ưa chuộng cách
ăn mặc giản dị, thường trông giống một diễn viên nghiệp dư không tìm
được việc hơn là một trong những ngôi sao nổi tiếng nhất Hollywood. Khi
anh đoạt giải Oscar năm 2006 cho vai diễn trong phim
Capote, có
một điều trở nên rõ ràng, đó là Philip Seymour Hoffman là một diễn viên
thực sự tài năng. Thực ra, điều này đã rõ ràng từ lâu, vấn đề là bạn có
để ý hay không.
Bạn có thể nhận ra tài năng của anh từ khi anh và John C. Reilly khơi dậy không khí hừng hực tại trên sâu khấu vở kịch
True West vào năm 2000. Hay có thể là còn sớm hơn thế, cảnh điện thoại da diết trong
Magnolia, cảnh điện thoại khác kinh dị đến rợn người trong
Happiness, cách anh mô tả sự căm ghét bản thân trong
Boogie Nights và sự kiêu ngạo tự tôn trong
The Talented Mr. Ripley đều thể hiện rõ tài năng, tính kỷ luật và sự can đảm của anh.
Không
khó để tìm những bằng chứng khác. Trong sự nghiệp 25 năm của mình,
Hoffman xuất hiện trong hơn 50 phim. Trong thập kỷ 1990, anh có những
vai nhỏ trong
Leap of Faith, với diễn viên chính là Steve Martin trong vai một thầy thuốc tâm linh, và
Scent of a Woman, đóng vai bạn học của Chris O’Donnell, do Al Pacino đóng. Anh cũng từng xuất hiện trong các phim bom tấn lớn như
Mission: Impossible III (2006),
Moneyball (2011) và
The Hunger Games: Catching Fire (2013). Anh được đánh giá cao cho các vai diễn trong các phim độc lập như
The Savages (2007), phim đưa anh vào vai anh em với Laura Linney và kể về nỗ lực chăm sóc người cha bệnh tật của họ;
Synecdoche, New York
(2008), phim tâm lý ngoài luồng của Charlie Kaufman, anh vào vai một
đạo diễn sân khấu trong mối tơ vò giữa công việc và đàn bà; và
A Late Quartet, kể về một nghệ sĩ vĩ cầm gặp khó khăn trong sự nghiệp và với gia đình.
Moneyball
Nhưng nêu lên những vai diễn nổi bật của sự nghiệp bận rộn của Hoffman –
gồm cả công việc đạo diễn và diễn xuất trên sâu khấu – lại là hành động
có thể đánh giá thấp tài năng đa dạng của anh, và việc anh luôn sẵn
lòng khám phá chiều sâu của những nhân vật được cho là đáng sợ hay độc
ác, và những nhân vật yếu đuối xấu xí. Anh thực sự là một tắc kè hoa đầy
màu sắc trong những vai diễn yêu cầu anh phải biến dạng trở nên xấu xí.
Anh đóng vai một kẻ nịnh bợ nhỏ thó trong
The Big Lebowski (1998) của anh em Coen; một cựu ngôi sao muốn tìm lại sự nổi tiếng của mình trong
Along Came Polly (2004); một kẻ nghiện thủ dâm trong phim mô tả cuộc sống thành thị New Jersey của Todd Solondz,
Happiness (1998); một người đàn ông tốt nghiệp Princeton kiêu ngạo trong
The Talented Mr. Ripley (1999); một phóng viên tọc mạch trong
Red Dragon (2002), chuyển thể từ một tiểu thuyết
Hannibal Lecter của
Thomas Harris; và vai diễn đột phá, đưa anh vào bản đồ ngôi sao, là vai
Scotty J., một người cầm micro nhút nhát, thừa cân và đồng tính, làm
việc trong một đoàn làm phim khiêu dâm, trong
Boogie Nights (1997).
Các vai chính kịch của anh thường là trong những phim có ngân sách vừa (
Capote, 25th Hour, Doubt, Before the Devil Knows You’re Dead, The Savages và
Synecdoche, New York,
chỉ là vài phim trong số nhiều phim thuộc thể loại này của anh), và các
phim đó nổi bật vì anh luôn sẵn sàng tìm hiểu tâm hồn của những nhân
vật đầy lỗi lầm, kể cả những nhân vật bị căm ghét. Khi vào vai anh bạn
lập dị, thừa cân hay người đồng nghiệp nhẹ dạ trong một phim thương mại
lớn hơn, Hoffman không chỉ mang lại không khí hài hước cho bộ phim, mà
còn cho khán giả niềm vui được xem một diễn viên tiếp cận nghệ thuật của
mình một cách nghiêm túc, bất kể phim đó theo thể loại gì. Anh có thể
là diễn viên chuyên về những vai diễn u buồn, nhưng bạn luôn phải cảm
thấy vui vẻ được thấy anh trên màn ảnh.
Với Laura Linney trong The Savages (2007)
Tài năng của Hoffman luôn được ca ngợi khi anh còn sống. Nhưng tin sốc
về cái chết của anh vào chủ nhật vừa rồi mới cho tất cả mọi người thấy –
vừa quá muộn và quá sớm – những thành tựu và công hiến của anh thực sự
vĩ đại đến thế nào. Chúng ta không chỉ vừa mất đi một diễn viên giỏi.
Chúng ta có thể vừa mất đi diễn viên giỏi nhất đang có được. Anh ra đi
khi chỉ mới 46 tuổi, và cái chết của anh đã cắt ngắn một sự nghiệp vốn
dĩ đã tuyệt vời.
Chúng ta sẽ không được xem những vai diễn được
lên kế hoạch của anh như Vua Lear, hay Prospero, hay James Tyrone trong
một lần diễn
Long Day’s Journey Into Night khác. (Anh từng đóng
vai con trai nhân vật này, Jamie, lần diễn vở kịch vào năm 2003.) Nhưng
những năm gần đây, anh đã dần dần chuyển từ những vai con người đầy lo
âu sang những vai người trụ cột gia đình đầy bi kịch.
Năm 2012, anh hóa thân thành nhân vật sân khấu có lẽ nổi tiếng nhất của Mỹ - Willy Loman trong vở
Death of a Salesman của
Arthur Miller. Ở tuổi 44, anh được cho là quá trẻ cho vai diễn, nhưng
đạo diễn Mike Nichols đã chọn anh để vở diễn có thể tập trung nhiều hơn
vào những cảnh hồi tưởng về một Willy trẻ hơn. Dù vở diễn nhận nhiều
đánh giá trái chiều, Hoffman vẫn nhận một đề cử Giải Tony. Willy Loman
của Hoffman mô tả một cách cay nghiệt tính phù du, sự lừa gạt bản thân
của một con người khát khao tình cảm, qua diễn xuất đầy sức mạnh và sự
tinh tế, đủ để chuyển tải thông điệp của vở kịch nhưng cũng vượt qua sự
ủy mị vở kịch có thể mắc phải.
Andrew Garfield, Finn Wittrock, Philip Seymour Hoffmann và Linda Emond
trong vở Death of a Salesman trên sân khấu Broadway
“Hoffman thể hiện sự lưỡng lự trước cửa tử thần của nhân vật tốt hơn bất cứ ai khác,” Ben Brantley viết cho tờ
The New York Times, “và anh tuyệt vời khi thể hiện sự hoài nghi làm sụp đổ Willy khi anh đi bán sự lạc quan về Giấc mơ Mỹ đã tắt của mình.”
Trong năm 2000, Hoffman và John C. Reilly xuất hiện trên sân khấu trong
True West,
vở kịch tâm lý hài của Sam Shepard về quá trình hội ngộ của hai anh em
nhiều năm không gặp mặt, và vì đây là hai vai chính, hai diễn viên chính
đã đổi vai cho nhau trong mỗi buổi diễn.
Vào năm 2003, anh vào
vai Jamie Tyrone, người con trai nghiện rượu của James và Mary Tyrone
(Brian Dennehy và Vanessa Redgrave đóng) trong vở
Long Day’s Journey Into Night về sự sụp đổ của gia đình của Eugene O’Neill.
“Diễn trên sân khấu là điều khó khăn với anh,” Robert Falls, đạo diễn
Long Day’s Journey, nói. “Công việc như thế hút hết sức lực của anh, phải diễn một tuần tám buổi, rồi còn diễn tập trước đó. Trong
Long Day’s Journey,
anh đóng vai một kẻ nghiện rượu sẽ chết trong vài năm, và một con người
căm ghét bản thân, và rõ ràng Phil có thể khai thác được cảm giác đó
trong bản thân. Anh đưa tất cả nỗ lực của mình lên sân khấu. Anh thực sự
nhập mình vào vai diễn – với chiều sâu cảm xúc và tính con người –
không có diễn viên nào tôi từng làm việc cùng có thể nhập tâm đến thế.”
Trên sân khấu năm 2000 trong vở kịch True West
Trong các vai phụ trên phim điện ảnh, Hoffman được đề cử giải Oscar ba
lần, với các vai: một cha xứ bị nghi ngờ tội xâm phạm tình dục trong
Doubt (2008), một điệp viên CIA trong
Charlie Wilson’s War (2007) và một trùm xã hội đen trong
The Master (2012).
Nhưng vai diễn mang về cho anh giải Oscar lại là vai chính trong
Capote (2005). Trong vai tác giả đồng tính và lập dị của loạt sách về sự kiện giết người hàng loạt có thật,
In Cold Blood,
Hoffman hoàn toàn lột xác trở thành Truman Capote, với cả giọng the
thé, khàn khàn, và sự gần như điên dại tự nhiên của tác giả này. Viết
cho
The Times, A. O. Scott mô tả bộ phim là mối quan hệ giữa một nhà văn và tác phẩm.
“Một
mối quan hệ như thế tạo nên một bộ phim tâm lý hay hơn bạn tưởng,”
Scott viết. “Sự liên kết giữa Capote và con người, phần lớn, chỉ đứng
thứ hai và mang tính chất phụ, khiến diễn xuất của Philip Seymour
Hoffman trở nên còn kinh ngạc hơn, vì là diễn viên, anh phải kết nối
được với khán giả mà không phá vỡ vỏ bọc tự kiêu của nhân vật.”
Capote (2005)
“Hoffman không chỉ mô tả được những yếu tố bề ngoài của Capote, như
giọng nói và bộ dạng nhỏ thó, gù lưng của ông ta, mà còn thể hiện được
một cách tinh tế những tính khí phức tạp luôn thay đổi của ông.”
Những gì Hoffman chứng tỏ trong
The Master,
phim thứ năm của anh với biên kịch kiêm đạo diễn Paul Thomas Anderson,
còn tuyệt vời hơn thế. Thế giới bên ngoài có thể phải mất nhiều thời
gian mới hiểu được động cơ đen tối của nhân vật, nhưng một khi nhận ra,
họ sẽ thấy Lancaster Dodd, một biểu tượng của chủ nghĩa lý tưởng bị đồi
bại, và từ nhân vật toát ra nhiệt huyết kinh doanh và những cái nhìn
thực sự sâu sắc về tâm linh.
Nhưng, cũng như nhân vật luôn tự
nói về bản thân trong sự khiêm tốn phô trương, trong diễn xuất của
Hoffman ta cũng thấy rõ một người đàn ông. Dodd là người trần mắt thịt,
với những cơn đói khát và trí tưởng tượng, là một sản phẩm của thời đại
và nơi hắn sinh ra. Giọng nói của Hoffman, vẻ bề ngoài bệ vệ và vẻ tri
thức nghiêm túc biến Dodd thành một hình ảnh điển hình của một người Mỹ
hậu chiến tranh. Từ phía nhân vật này toát ra vẻ chính văn hóa hiếu kỳ
chua ngoa cuối cùng tạo nên một nhân vật như Willy Loman.
The Master (2012)
Tuy nhiên,
The Master không chỉ là một bản chuyển thể lịch sử.
Như chính Dodd, bộ phim muốn đào sâu vào những bí ẩn về tính cách con
người, từng người một. Dodd là một thầy thuốc, một kẻ lừa bịp và tự tôn
mình là nhà tiên tri. Trên hết, Dodd cũng là một diễn viên: một kẻ ưa
biểu diễn, một ca sĩ ngẫu hứng và tay hài, một người đàn ông với một
phương pháp của riêng mình. Hắn gọi đó là Mục tiêu, nhưng cách thức khám
phá tâm lý người khác, dựa theo việc khai thác ký ức và ra những cảm
xúc bị chôn sâu của nhân vật cũng không khác gì phương pháp nhiều diễn
viên sử dụng để tìm hiểu nhân vật mình đóng.
Cách làm việc của
Hoffman — có thể không được nêu rõ là theo bất cứ trường phái và phương
pháp nào – chính là sản phẩm của trí thông minh không bao giờ ngơi nghỉ
và nghị lực của chính anh, cho phép anh được dấn thân vào nhân vật một
cách sâu và xa hơn nhiều đồng nghiệp của anh muốn tìm hiểu.
Lancaster
Dodd có thể trở thành một nhân vật thường thấy trên màn ảnh: quyễn rũ,
láu cá, lừa bịp. Nhưng Hoffman đã biến nhân vật trở nên hơn thế. Một
trong những cảnh đầu phim của anh là một buổi phỏng vấn – nửa là khám
tâm lý, nửa điều tra – với Freddie Quell, một cựu chiến binh bị bệnh tâm
thần do Joaquin Phoenix đóng. Giọng khàn khàn của Hoffman cùng lúc thể
hiện sự thích thú tàn ác và lòng trắc ẩn của Dodd: sự khao khát muốn vừa
giúp đỡ, vừa quyễn rũ, vừa thống trị con người trước mặt của Dodd. Sau
đó, trong cảnh Dodd nâng cốc chúc mừng tại lễ cưới của con gái, chúng ta
thấy cả sự tự ti và kiêu ngạo của nhân vật, và một chút cô đơn lóe lên
trong mắt hắn, một cảm xúc luôn dẫn đến sự khao khát tình cảm tới điên
dại của hắn.
Với Meryl Streep trong Doubt (2008)
Dodd mời chúng ta đưa ra lời phán xét – hắn làm những điều kinh khủng để
phục vụ những mục tiêu mờ ám – nhưng bản thân Hoffman đòi hỏi chúng ta
phải ngưỡng mộ hắn. Mục tiêu của anh không chỉ là phơi bày sự thực tâm
lý nhân vật, mà sự mờ ảo trong ranh giới đạo đức luôn tồn tại trong cả
nghệ thuật và đời sống, một thứ luôn khiến chúng ta phải sợ hãi.
Đây
không phải chỉ là vấn đề chứng minh rằng cuộc đời không có trắng đen rõ
ràng. Những nhân vật của Hoffman thường sống trong một thế giới đầy sự
giày vò về đạo đức và sự tồn tại. Họ đấu tranh trên một chiến trường nơi
sự kiêu hãnh và lương tâm phải chiến đấu với những bản năng xấu xa và
cầm thú của con người.
Lancaster Dodd hy sinh trí thông minh của
mình để nâng cao cái tôi của bản thân. Truman Capote đánh đổi sự sự
chính trực của mình và phản bội bạn bè để đạt được tham vọng văn học của
mình, và hoạt động với những mục tiêu kết hợp giữa lòng trắc ẩn và một
sự hiếu kỳ rợn người. Người thầy giáo trong
25th Hour và tên thợ săn trong
Happiness đều là những nhân vật đáng sợ đến rùng mình. Nhà nghiên cứu trong
The Savages ghét loài người một cách thú vị đến tuyệt vời trong khi nghệ sĩ sân khấu cáu kỉnh trong
Synecdoche, New York có thể chỉ ức chế với thế giới xung quanh. Nhân vật cha xứ trong
Doubt và người có thể trở thành tội phạm trong
Before the Devil Knows You’re Dead còn có khả năng trở thành những con người còn tồi tệ hơn.
Scent of a Woman (1992)
Đây không chỉ là mẫu nhân vật phản anh hùng của những chương trình
truyền hình cáp, những nhân vật phản diện quyến rũ. Trong nhiều trường
hợp, họ thực sự, thực sự là những con người khủng khiếp: đáng khinh, tởm
lợm và không đáng được thông cảm. Nhưng chính Hoffman đã cứu họ ra khỏi
sự căm ghét đó bằng cách không chọn con đường dễ dàng để cho họ có được
sự cứu rỗi.
Hoffman không quan tâm chúng ta có thích những nhân
vật u buồn này không. Mục đích là khiến chúng ta tin họ tồn tại, và từ
họ - từ anh – nhận ra một sự thực về bản thân mà chúng ta có thể muốn né
tránh. Anh có khả năng hiếm có soi sáng cho ta thấy những vẻ xấu xí
nhất của con người. Nhưng không có ai làm điều đó đẹp hơn anh.
Dịch: © Xuân Hiền @Quaivatdienanh.com
Nguồn: ABC News, Huffington Post, Deadline, New York Times
Hãy chia sẻ ý kiến của bạn về bài viết này trên
Facebook của chúng tôi