Cảnh trong phim hoạt hình lãng mạn lấy bối cảnh Cuba Chico and Rita
|
Kể từ khi khởi xướng hạng mục Oscar phim hoạt hình hay nhất năm 2001,
Viện Hàn lâm họa hoằn lắm mới tôn vinh các tác phẩm đề tài trưởng thành
khi các siêu cường phòng vé nhắm đến khán giả ở mọi lứa tuổi. Những phim
hướng đến người trưởng thành thường là những tác phẩm vẽ tay được hình
thành ở nước ngoài bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh và không có sự
tham gia của các tập đoàn lớn.
Một số từng là ứng viên đáng chú ý có thể kể đến là phim lãng mạn lấy bối cảnh Cuba
Chico and Rita, bộ phim nói tiếng Pháp thơ mộng về số phận
I Lost My Body, và bản chuyển thể tiểu thuyết đồ họa tự truyện
Persepolis của Marjane Satrapi.
Sự
công nhận dành cho những phim này tại lễ trao giải Oscar giúp đánh đổ
mọi giả định cho rằng phẩm chất duy nhất của loại hình truyền thông này
là làm phương tiện cho những câu chuyện hướng đến trẻ em.
Bản chuyển thể tiểu thuyết đồ họa tự truyện Persepolis của Marjane Satrapi
|
Nó cũng chứng minh rằng ngành công nghiệp hoạt hình Mỹ do hãng phim lớn
thống trị hiếm khi đầu tư cho loại hình làm phim táo bạo này. Một ngoại
lệ đã nhận được sự gật đầu của Viện Hàn lâm là bản thiền định
stop-motion về sự cô đơn và tình bạn của Charlie Kaufman và Duke
Johnson,
Anomalisa.
Nhóm ứng viên hiện tại đang cạnh
tranh một suất trong số năm ứng viên cuối cùng giới thiệu nhiều ví dụ về
cách kể chuyện bằng cảm xúc cốt lõi giải quyết các vấn đề của người lớn
với sự tinh tế về hình ảnh đậm phong cách.
Trước đây từng được đề cử cho câu chuyện gia đình kỳ ảo
Mirai,
đạo diễn người Nhật Mamoru Hosoda hướng sự quan tâm của ông vào cuộc
sống trực tuyến mà chúng ta đang sống — một chủ đề ông đã từng đề cập
trong
Summer Wars (2009) — với âm nhạc khuấy động tâm hồn, câu chuyện cổ tích sống số
Belle (dự kiến ra rạp ở Việt Nam vào ngày 25 tháng 2 với tựa:
Belle: Rồng và Công chúa tàn nhang).
Mamoru Hosoda hướng sự quan tâm của ông vào cuộc sống trực tuyến mà
chúng ta đang sống, xây dựng một vũ trụ ảo được gọi là U. Bên trong cõi
vô hình này, cô thiếu nữ sợ sệt Suzu (do Kaho Nakamura lồng tiếng) biến
thành một ngôi sao nhạc pop siêu tự tin
|
Mượn cốt truyện
Người đẹp và quái vật năm 1991 của Disney,
nhưng được thay đổi lại để phù hợp với thẩm mỹ sống động của mình,
Hosoda xây dựng một vũ trụ ảo được gọi là U, nơi mọi người cùng tồn tại
dưới dạng ảnh đại diện màu sắc rực rỡ thể hiện đúng đặc điểm thể chất và
tính cách của họ.
Bên trong cõi vô hình này, cô thiếu nữ sợ sệt
Suzu (do Kaho Nakamura lồng tiếng) biến thành một ngôi sao nhạc pop siêu
tự tin. Nhưng khi một người dùng gây chuyện, một con rồng mặc áo choàng
bí ẩn, bắt đầu tàn phá, thực tế tràn vào cuộc trốn chạy tưởng như bình
dị này. Những pha hành động gay cấn, xây dựng thế giới đầy cảm hứng và
nhạc phim lôi cuốn đối nghịch với những chủ đề gai góc hơn.
Với vẻ trang trọng xúc động,
Belle đối
đầu với sự mất kết nối trong giao tiếp giữa cha mẹ và con cái, cũng như
những người giám hộ bỏ rơi và lạm dụng những người trẻ tuổi. Tuy nhiên,
thay vì ám chỉ các tương tác mà chúng ta có thông qua các nhân vật trên
internet, Hosoda trình bày phương thức tương tác thay thế là con đường
kết nối chân thành.
Một cảnh trong The Summit of the Gods
|
Ngược lại, bộ phim leo núi nhập vai hấp dẫn
The Summit of the Gods
(phát trực tuyến trên Netflix) lập bản đồ câu chuyện về nỗi ám ảnh kép
trong việc hết phim hoạt hình này đến phim hoạt hình khác về các địa
điểm: Đỉnh Everest, dãy Alps, Tokyo, tất cả đều không kém cạnh trong kết
xuất hoạt hình. Bộ phim do Pháp sản xuất (dựa trên manga của Jiro
Taniguchi) miêu tả hoạt động vất vả và nguy hiểm giống như một cuộc truy
tầm tâm linh.
Bất chấp việc lên đến đỉnh cao nhất thế giới, nhà
leo núi ẩn dật Habu (Éric Herson-Macarel lồng tiếng) đã dành nhiều năm
để chuẩn bị làm chuyện này một mình. Cùng lúc đó, phóng viên ảnh
Fukamachi (Damien Boisseau) đang thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm chiếc máy
ảnh thuộc về nhà leo núi George Mallory ngoài đời thực, người đã chết ở
mạn phía bắc của dãy Everest. Những mong muốn riêng rẽ của họ sớm trở
nên gắn bó chặt chẽ với nhau.
Trước khi thực hiện
Summit, đạo diễn Patrick Imbert đã từng là đạo diễn hoạt hình cho các dự án siêu cách điệu như truyện ngụ ngôn nổi tiếng
Ernest & Celestine.
Nhưng ở đây, nỗ lực đạo diễn đơn đầu tiên của anh, có cách tiếp cận
khắc khổ hơn đối với thiết kế nhân vật để khám phá niềm khao khát của
con người với những điều chưa biết, chứ trọng tâm không phải là cách
điệu. Mặc dù hầu hết chúng ta có thể không bao giờ hiểu điều gì thôi
thúc người ta bất chấp tất cả ở những độ cao như vậy, nhưng
Summit cố gắng đưa chúng ta đến gần đỉnh cao nhất có thể thông qua các ấn tượng cảm quan.
Một cảnh trong bộ phim tiếng Pháp ảm đạm cảm động The Swallows of Kabul
|
Ở trong thế giới thực đủ phức tạp của chúng ta, có hai phim năm nay củng
cố một xu hướng xem hoạt hình là lộ trình để hiểu những phức tạp về văn
hóa và địa chính trị của Afghanistan. Những tác phẩm này cùng với các
bộ phim nổi bật gần đây như
The Breadwinner được đề cử Oscar của Cartoon Saloon và phim tiếng Pháp ảm đạm cảm động
The Swallows of Kabul.
Đầu tiên, là chuyến phiêu lưu của người tị nạn đã được trao nhiều giải thưởng
Flee của
Jonas Poher Rasmussen, một tác phẩm phi hư cấu truy dấu đường đi nguy
hiểm của cậu trai trẻ từ những năm 1980 ở Kabul trong tình trạng hỗn
loạn tìm đến an toàn trong ngôi nhà nhận nuôi cậu ta ở Copenhagen. Chủ
thể, Amin (cái tên giả được sử dụng để bảo vệ danh tính nhân vật), kết
bạn với nhà làm phim khi cả hai còn ở tuổi thiếu niên.
Xét mức độ nghiêm trọng của các tình huống được miêu tả và chúng dựa trên các sự kiện có thật,
Flee gợi nhớ
Waltz With Bashir của Ari Folman, phim tài liệu hoạt hình của Israel được đề cử Oscar phim quốc tế hay nhất năm 2009.
Một cảnh trong phim Flee của Jonas Poher Rasmussen
|
Hoạt hình đã trao quyền cho Rasmussen và nhóm của anh hiện thực hóa
những ký ức đau buồn nhất, sang chấn nhất của Amin trong kiểu mê mẩn và
đưa người xem trở về quá khứ không chỉ như nó đã xảy ra mà còn như anh
đã trải qua, với sự cộng hưởng gần gũi sống động. Bên dưới hành trình
mạo hiểm đó là việc Amin che giấu xu hướng tình dục của mình.
Flee (chiếu
rạp) sẽ làm nên lịch sử Oscar nếu nhận được đề cử ở cả ba hạng mục phim
hoạt hình, phim tài liệu và phim truyện quốc tế (đại diện cho Đan
Mạch).
Bộ phim làm mờ ranh giới trong mùa giải thưởng này, đã
thắng giải phim phi hư cấu hay nhất từ Hiệp hội phê bình điện ảnh New
York và giải phim hoạt hình hay nhất từ Hiệp hội phê bình điện ảnh Los
Angeles, là trường hợp điển hình cho giá trị và hiệu quả của phim hoạt
hình đủ thể loại và định dạng.
Một cảnh trong My Sunny Maad do Michaela Pavlatova đạo diễn
|
Một câu chuyện gay cấn khác diễn ra ở Afghanistan, nhưng là nhiều thập kỷ sau,
My Sunny Maad,
đã nhận được một đề cử bất ngờ từ Quả Cầu Vàng. Nhà làm phim hoạt hình
người Séc dày dạn kinh nghiệm Michaela Pavlatova, từng được đề cử Oscar
cho phim ngắn năm 1993
Words, Words, Words, đây là phim hoạt hình đầu tiên của cô với câu chuyện kịch tính gia đình dựa trên tiểu thuyết của Petra Prochazkova.
Cô
sinh viên người Séc tên Herra (Zuzana Stivinova lồng tiếng) chuyển đến
Kabul sau khi kết hôn với một người đàn ông Afghanistan. Không thể có
con, họ nhận cậu bé mồ côi nhút nhát Maad (Shahid Maqsoodi) để tạo thành
một hạt nhân yêu thương, nhưng những lục đục trong nhà với các thành
viên trong gia đình lớn, cũng như tình trạng bất ổn quốc gia ngày càng
gia tăng, liên tục gây căng thẳng cho cuộc hôn nhân của họ.
Mặc
dù đến nay phim chỉ trình chiếu giới hạn cho đủ điều kiện tranh giải,
nhưng bộ phim tàn nhẫn chua xót này vẫn nhận được sự chú ý lớn. Pha trộn
giữa chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo nhẹ nhàng với những sự thật phũ phàng
không sàng lọc, Pavlatova đề cập đến vị trí dễ bị tổn thương của phụ nữ
trong một xã hội gia trưởng hà khắc.
Một cảnh trong Cryptozoo do Dash Shaw đạo diễn
|
Trong khi các ứng viên được đề cập trên đây là tác phẩm quốc tế, hai tựa
phim độc lập hiếm hoi của Mỹ cũng đi sâu vào chủ đề người lớn: cuộc
phiêu lưu điên rồ
Cryptozoo của Dash Shaw (phát trực tuyến trên Hulu) và sử thi kỳ ảo khủng khiếp
The Spine of Night của Philip Gelatt (cho thuê theo yêu cầu).
Sáng tạo vô cùng sâu sắc,
Cryptozoo tập
trung vào nhiều sinh vật thần thoại, được gọi là sinh vật bí ẩn, bị ám
ảnh bởi cả những người muốn trưng bày chúng trong công viên giải trí và
quân đội Mỹ muốn sử dụng chúng làm vũ khí.
Cả
Cryptozoo và
Spine đều
là những bổ sung đáng hoan nghênh cho bối cảnh phim hoạt hình trưởng
thành từ lâu hiếm có hình mẫu độc lập quyết liệt, như nhà làm phim hoạt
hình kỳ cựu Bill Plympton và Don Hertzfeldt, những người cố gắng giữ
toàn quyền kiểm soát sáng tạo các phim hài đặc trưng phong cách của họ
bằng cách làm việc với nguồn lực hạn chế.
Một cảnh trong sử thi kỳ ảo khủng khiếp The Spine of Night của Philip Gelatt
|
Cho dù điều đó có nghĩa là hưởng lợi từ các quỹ nhà nước châu Âu (
The Summit of the Gods,
Flee,
My Sunny Maad),
thành lập một công ty tự cung tự cấp (như Studio Chizu của Hosoda) hay
trở nên khéo tằn tiện để duy trì sự nghiệp, mẫu số chung của những bộ
phim này dường như là chúng tồn tại bên ngoài những hệ thống cản trở
phim hoạt hình thỏa chí tang bồng.
Dịch: © Hải Đăng @Quaivatdienanh.com
Nguồn: The New York Times