“Thảm hoạ phim Việt giờ vàng”, “Rùng hết cả mình vì phim Việt”... những
tiêu đề báo chí, cũng là nội dung tranh luận trên các diễn đàn văn hóa,
xã hội không chỉ thời gian gần đây. Nhà phê bình điện ảnh Đoàn Tuấn lý
giải sự yếu kém có tính chất hệ thống, kéo dài này của phim truyền hình
Việt Nam.
Phim Xin thề anh nói thật đang phát sóng nhận được nhiều ý kiến tranh luận
Nhìn ra châu Á
Tham khảo hệ thống sản xuất phim
của các đài truyền hình Hàn Quốc như KBS, SBS hay MBC, thấy quy trình
sản xuất phim vận hành rất khoa học. Họ đều có dây chuyền sản xuất kịch
bản, đội ngũ đạo diễn và các thành phần khác trong đoàn làm phim hoàn
chỉnh.
Đặc biệt, các khóa đào tạo diễn viên mở thường xuyên và
hiệu quả. Mỗi đài đều có tiêu chí của mình. Chẳng hạn MBS có thế mạnh về
phim cổ trang, hay KBS làm nhiều phim thần tượng. Và dù làm phim gì đi
chăng nữa thì đài truyền hình cả nhà nước lẫn tư nhân đều hướng tới lợi
ích cao nhất, đó là đồng tâm hiệp lực quảng bá hình ảnh Hàn Quốc ra nước
ngoài.
Tương tự, hệ thống sản xuất phim truyền hình của Hồng
Kông, cụ thể là đài TVA và TVB cũng liên tục hoàn thiện quy trình sản
xuất phim, nhằm phục vụ cho hàng triệu khán giả người Hoa trẻ toàn thế
giới.
Nhiều quan chức và nhà làm phim Việt Nam được tham quan
những nơi này, nhưng hầu như họ chỉ biết ca ngợi, khâm phục chứ không
thể tác động gì đến việc sản xuất phim ở nước mình.
Phim Anh chàng vượt thời gian đã dừng phát sóng
5 Không của phim truyền hình Việt
Cái
khác nhau căn bản là hệ thống sản xuất phim của ta khác nước ngoài.
Chúng ta có một đài trung ương và hơn 60 đài địa phương, nhưng chỉ có
hai đài có bộ phận sản xuất phim truyền hình. Đó là VTV và HTV (TPHCM).
Còn HTV ở Hà Nội sản xuất không đều. Các đài truyền hình cáp thì không
đài nào làm được phim truyền hình, dù là phim một tập. Hầu hết thi nhau
chiếu phim Hàn Quốc, Trung Quốc.
Hiện có bốn phim tài liệu thuộc
dạng khám phá của ta đang được chiếu trên kênh Discovery, các báo đài
đưa tin cổ động hân hoan. Trong khi đó, các đài của ta, từ trung ương
đến địa phương toàn chiếu (hầu như quảng cáo không công) phim nước
ngoài, có báo nước ngoài nào hoan hô đâu!
So sánh hệ thống sản
xuất phim truyền hình của ta với Hàn Quốc và Hồng Kông để thấy một điều,
các đài của ta hầu như chỉ đảm bảo nhận đầu ra (sản xuất phim). Việc
này đã có các hãng phim tư nhân lo. Trong khi các hãng phim tư nhân ở
nước ta đều có chung những điểm sau:
- Không có bộ phận sản xuất kịch bản chuyên nghiệp.
- Không có đạo diễn chuyên nghiệp.
- Không có diễn viên.
- Không có hệ thống thiết bị, máy móc.
- Không có bộ phận làm hậu kỳ.
Nhưng
tất cả vẫn thi nhau sản xuất phim. Ông Nguyễn Hồ, cựu giám đốc hãng
phim TFS nói: “Hiện ở Sài Gòn mỗi ngày có tới 9, 10 đoàn phim đang
quay.” Đạo diễn Nguyễn Quang vừa từ Đà Lạt về cho biết: “Quanh chợ Đà
Lạt nhỏ như vậy mà có tới bốn đoàn phim đang hoạt động.”
Một đạo
diễn khá nổi tiếng (xin được giấu tên) nhận xét: “Phim truyền hình của
ta, không phim nào được gọi là phim, mà tất cả đều na ná như phim.”
Trong một phim của chính đạo diễn này, có cảnh một thanh niên trèo lên
đồi cát. Anh ta phải trèo lên lại tụt xuống, ngã, bò, lại tụt... đến 5
phút. Cảnh này ngoài đời, con nít trèo 30 giây là xong, nhưng anh thanh
niên phải trèo 5 phút. “Nhà sản xuất yêu cầu thế để kéo dài phim,” đạo
diễn giải thích.
Ngoài năm điểm “không” ở trên, các hãng tư nhân
còn giống nhau ở mấy điểm khác nữa: Không có tiền, và phải tranh nhau
lobby nhà đài mới được xếp giờ chiếu.
Hầu như các hãng phim tư
nhân khi bắt tay vào sản xuất phim đều phải vay tiền ngân hàng. Mỗi lần
vay thì “bôi trơn” nhiều cửa, chịu lãi suất cao. Dẫn đến việc nhà sản
xuất buộc các đoàn phim phải quay càng nhanh càng tốt. Khi phim làm xong
rồi, họ lại phải “chạy” giờ chiếu, ngày chiếu.
Rồi lại phải tính
tỷ lệ ăn chia quảng cáo với nhà đài. Nếu hãng nào hợp tác được với công
ty quảng cáo thì phần quảng cáo được các công ty này lo. Tỷ lệ ăn chia
quảng cáo phần lớn do nhà đài thu cả. Các hãng phim tư nhân và công ty
quảng cáo chỉ được hưởng phần trăm cố định như thỏa thuận.
Vì
thế, để tiết kiệm, các hãng và các nhà làm phim có sáng kiến dùng cây
nhà lá vườn. Biên kịch: Người nhà; đạo diễn: Người quen; hóa trang:
Người nhà; diễn viên: Người quen; dựng cảnh: Người quen; đạo cụ: Người
nhà v.v và v.v... Câu trả lời vì sao phim ta chỉ “na ná phim” một phần
cũng ở đây.
Nội dung phim - thảm họa
Bởi
không ai quan tâm hết. Tất cả đều sáng tác kiểu tự phát. Một dạo rộ lên
phim đề tài tuổi teen. Thế là các hãng rủ nhau làm. Lại một dạo rộ lên
phim mẹ chồng nàng dâu như Trung Quốc. Rồi đổ xô làm phim về nông thôn,
gái quê lên thành phố... Ai định hướng cho các nhà sản xuất này? Một nữ
giám đốc hồn nhiên: “Nghe nói thị trường sẽ lên cơn sốt đề tài này thế
là làm.”
Còn chất lượng thì sao?
Cũng không ai quan tâm
hết. Đạo diễn chưa làm phim bao giờ lẫn đạo diễn 70 tuổi, gạo cội, giải
thưởng quốc gia, danh hiệu đầy mình v.v... đều được đánh đồng như nhau
bởi cùng ra một chợ. (Tuy vậy đạo diễn có số má được trả nhiều hơn). Nhà
đài không cần biết phim này của ai, do ai đạo diễn. Chiếu được vào giờ
ngon lành là do các mối quan hệ.
Hệ thống sản xuất phim truyền
hình của ta hiện nay được vận hành như vậy. Không có kinh nghiệm làm
phim sao cho hay nhưng kinh nghiệm chụp giật, bớt xén, bôi trơn có thừa.
Và đều không rút kinh nghiệm từ bài học phim mì ăn liền chết yếu những
năm 90 của thế kỷ trước.
Nguồn: Tiền Phong online