"Bà có sẵn sàng quay lại với Titanic không?" là câu hỏi của nhân vật nhà
săn tìm kho báu kiêu ngạo do Bill Paxton thể hiện đặt ra với nhân vật
Rose lúc về già do nữ diễn viên quá cố Gloria Stuart thủ vai trong đoạn
mở đầu phim Titanic, và đó cũng là câu hỏi tương tự mà đạo diễn
kiêm tác giả kịch bản James Cameron đặt ra với khán giả khi siêu phẩm
của ông quay lại các rạp hát ở định dạng 3D hợp thời trang.
Ngoài khía cạnh kiệt tác kỹ thuật vào thời điểm ra mắt năm 1997,
Titanic đã
trở thành một hiện tượng văn hóa và ghi một kỷ lục 14 đề cử Oscar và
thắng 11 giải, trong đó có Đạo diễn xuất sắc và Phim xuất sắc, và thu
được hơn 1,8 tỉ đôla doanh thu toàn cầu. Chung cuộc, đây là một thành
công mà rất ít nhà làm phim mơ ước lập lại, thế nhưng Cameron đã làm
được vào năm 2009 khi siêu phẩm viễn tưởng
Avatar của ông vang
danh khắp toàn cầu không những được giới phê bình khen ngợi mà thu về
doanh số đình đám mà đã được củng cố và làm tăng giá trị nhờ sử dụng
công nghệ 3D.
Giờ đây, Cameron, người ủng hộ 3D nhiệt thành, đưa thêm một chiều nữa
vào khẳng định kinh điển hiện đại của ông, "3D làm giàu cho gần như mọi
khoảnh khắc gây cấn trong phim
Titanic và là những khoảnh khắc
cảm xúc nhất. Hơn lúc nào hết, bạn thấy mình đang ở đó trải qua cơn nguy
nan mà Jack và Rose trải qua. 3D nâng trải nghiệm phim lên một tầm
mới."
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu xem liệu niềm đam mê 3D của Cameron có chuyển hóa vào công việc chuyển đổi hậu kỳ của
Titanic hay không.
Tính phù hợp
Khi nhớ đến
Titanic của
Cameron, cảnh tượng đầu tiên hiện lên trong tâm trí thường nhất là hành
động và kịch tính khó tin mở ra lúc con tàu khổng lồ này chìm xuống.
Tuy nhiên, con tàu không va phải tảng băng trôi định mệnh cho đến khi đã
được gần hai tiếng đồng hồ trong thời lượng 194 phút của bộ phim. Trước
đó, hầu hết là cảnh lãng mạn và mâu thuẫn giai cấp, xem ra các yếu tố
không phải là lựa chọn hiển nhiên cho một sự nâng cấp 3D. Tuy nhiên, sự
kỳ vĩ và quy mô của con tàu huyền thoại này tự thân đã phù hợp cho việc
bổ sung chiều không gian thứ ba.
Điểm: 3/5
Kế hoạch và công sứcRõ ràng khi
Titanic được sản
xuất lần đầu vào năm 1997, không ai nghĩ đến việc làm phim này thành
bản 3D. Tuy nhiên, Cameron đã khẳng định rằng mối quan tâm dành cho công
nghệ 3D của ông đã có từ năm 2001, và ông cùng đối tác sản xuất lâu năm
Jon Landau đã nghĩ đến việc áp dụng công nghệ này cho
Titanic về sau. Sau khi chạy thử một số phiên bản, cặp đôi này đã giám sát toàn bộ quá trình tái dựng 3D của
Titanic trong
đó có những phát triển đột phá trong chuyển đổi 2D thành 3D, 300 nhân
viên đồ họa vi tính, và hơn 750.000 giờ công để chạm khắc và xử lý cắt
lớp ảnh (rotoscope) 295.000 khung hình để cho
Titanic một chiều mới và sâu hơn. Thế nhưng, quay phim và dựng cảnh gốc khó mà hưởng được lợi ích của công nghệ 3D từ đầu đến cuối.
Điểm: 3/5Trước màn ảnhĐây
thường được xem là khía cạnh lóa mắt và phô trương nhất của 3D, nhưng
lại là khía cạnh gây hào hứng nhất. Tuy nhiên, phim chuyển đổi hậu kỳ
thì khó mà tận dụng được yếu tố này, và Cameron cùng nhóm của ông không
hề bận tâm, thật đáng tiếc khi có nhiều sóng biển cuồn cuộn trong phim
như thế. Thay vì thế, Cameron thích việc đưa thêm chiều sâu trong màn
ảnh hơn.
Điểm: 1/5
Sâu trong màn ảnhĐây là điều bản
Titanic 3D làm
tốt nhất. Phong cách quay phim của Cameron trong phim này đã đem lại
thích thú với sự phong phú về tính kỳ vĩ và quy mô của con tàu Titanic,
nhưng với việc thêm chiều thứ ba, những đại sảnh, cầu thang, boong tàu
và nhà ăn đều có chiều sâu như thực. 3D quả đã thêm yếu tố đáng kỳ diệu
mới vào các cảnh quay trong phim trường cũng như cảnh thám hiểm xác con
tàu dưới nước. Tuy nhiên, không chuyển tải được ngoại cảnh con tàu, do
chuyển đổi hậu kỳ, trông phẳng toẹt và kém thật hơn trước khi để cạnh
những bản chuyển đổi 3D được thực hiện xuất sắc khác.
Điểm: 4/5Độ sángPhàn
nàn thường gặp về phim 3D là hậu quả do cặp kính 3D đem lại sự tối tăm,
mà một số phim không tính tới. Cameron, luôn để mắt đến mọi lời chỉ
trích công nghệ 3D, đã tính tới điều này, đảm bảo mọi cảnh phim đều đủ
sáng sủa để vẫn trong như pha lê với bóng râm của cặp kính 3D, do đó
không bỏ lỡ chi tiết nào.
Điểm: 5/5
Thử bỏ kínhĐây là thử nghiệm điển hình mà phim chuyển đổi
hậu kỳ đều thua phim quay bằng 3D. Cách thử rất đơn giản – bỏ kính ra
và quan sát xem hình ảnh nhòe đi thế nào. Càng nhòe là càng rõ công dụng
của 3D. Mặc dù chuyển đổi hậu kỳ,
Titanic vẫn làm ăn tốt trong
đấu trường này với các cảnh phim hành động có thể và đã được nhào nặn
3D. Vì thế, khi Rose và Jack lăn tuột trên boong tàu hoặc chạy trong
hành lang, độ nhòe thay đổi, cho thấy nhóm của Cameron đã chú tâm vào
việc sáng tạo một cảm giác như thật của chiều không gian thứ ba. Các cận
cảnh thì kém ấn tượng hơn. Ở những cảnh này, các họa sĩ vi tính đã nỗ
lực vô ích để khắc họa gương mặt, và thêm một chiều vào những yếu tố
nền, chẳng hạn những lọn tóc xoắn của Rose, nhưng kết quả quá mờ nhạt
khó nhận ra.
Điểm: 3/5Sức khỏe của khán giảDo
nhảy từ tiêu điểm này sang tiêu điểm khác quá nhanh, đôi khi 3D làm cho
khán giả thấy nhức đầu. Trong phim chuyển đổi hậu kỳ, việc này thường
xảy ra hơn khi việc chuyển đổi làm cho phim bị rung như thể hình ảnh bị
cà lăm. Với tất cả nỗ lực mà Cameron nhóm của ông đã đặt vào có một số
sự "cà giật" như thế nhưng chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi gây khó
chịu hơn là gây buồn nôn hoặc nhức đầu.
Điểm: 4/5
Kết luận: 23 trên 35. Một điểm số tốt, nhưng không phải là điểm
số tuyệt vời. Nhóm của Cameron đã làm một công việc phi thường để đưa
thêm chiều mới vào bi kịch tình yêu sử thi của ông, nhưng kết quả thực
sự không thể cạnh tranh lại những phim được lên kế hoạch làm 3D từ đầu.
Tuy nhiên,
Titanic là một tuyệt tác trên màn ảnh rộng, và 3D
quả có làm cho một số cảnh phim ấn tượng sâu sắc. Hãy mua vé tùy theo
bạn muốn có trải nghiệm gì. Vì một số cảnh ngoạn mục thì 3D có tác dụng
thật, nhưng phần lớn bộ phim chẳng cần cải thiện thêm gì cả.
Dịch: © Yên Khuê @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Cinema Blend
Hãy chia sẻ ý kiến của bạn về bài viết này trên
Facebook của chúng tôi