Đầu mùa hè năm nay, ngồi trong một rạp chiếu phim ở London để xem bộ
phim cực kỳ được mong đợi nhưng bị đại dịch trì hoãn của Denis
Villeneuve chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng kinh điển Dune của Frank Herbert, bất giác người viết rơi nước mắt.
Đã không đến rạp chiếu phim trong gần hai năm và người viết quên mất xem
chiếu bóng là như thế nào. Quên ánh sáng bên trong một khán phòng lớn
luôn mang lại cảm giác bụi mù và mệt mỏi đêm khuya, bất kể đó là lúc nào
trong ngày. Quên mùi đặc biệt của bỏng ngô và nước giặt thảm, gợi lại
ký ức tuổi thơ khi lướt ngón tay qua tĩnh điện trên mặt kính tivi vừa
bật; quên tầm vóc chóng mặt của không gian và màn ảnh.
Khi bộ
phim bắt đầu, người nghe thấy tiếng đập của một nhịp tim đối ngược với
nhịp tim của chính mình, bùng nổ bất hòa khi nhạc nền của Hans Zimmer
len vào, và sau đó ánh sáng sa mạc khắc nghiệt đốt cháy đáy mắt và người
viết ở vào một nơi hoàn toàn khác, chứng kiến cuộc nổi dậy trên một
hành tinh xa xôi bị đàn áp tàn bạo — và sau một lúc, người viết nhận ra
mình cứ mãi thì thầm trong hơi thở, “Ôi, Chúa ơi.”
Sau
buổi chiếu, người viết đi trên những con phố vắng vẻ, đầu óc đầy sa mạc
và những cây chà là cháy, những con tàu rộng lớn, những con giun cát
quái dị và cảm giác kinh ngạc thích thú rằng những hình ảnh trong sách
đã được hiện thực hóa một cách tinh vi. Josh Brolin, đóng vai chiến binh
Gurney Halleck trong phim, đã đưa một người bạn hâm mộ
Dune suốt
đời đến một buổi chiếu ở New York, và lúc hết phim, người bạn đó bắt
đầu hét lên: “Đúng là thế! Đúng vậy đó! Đúng là những gì tôi đã thấy!
Những gì tôi đã thấy khi còn nhỏ!”
Trong những thảo luận đầu tiên với các biên kịch, tất cả đều rõ ràng
rằng Villeneuve muốn giới thiệu trước về những người phụ nữ trong câu
chuyện, đặc biệt là Lady Jessica (Rebecca Ferguson, giữa)
|
Với sự tham gia của các ngôi sao như Timothée Chalamet, Oscar Isaac,
Rebecca Ferguson, Josh Brolin, Stellan Starsgard, Zendaya và Javier
Bardem,
Dune đã mất ba năm rưỡi sản xuất và tiêu tốn khoảng 165
triệu USD. Bỏ qua màn hình xanh của hầu hết các bộ phim khoa học giả
tưởng, Villeneuve quay ở sa mạc Jordan và Các Tiểu vương quốc Ảrập Thống
nhất, ở đó các diễn viên đổ mồ hôi trong trang phục cao su dưới cái
nóng 120 độ.
Khi Warner Brothers thông báo rằng
Dune sẽ được phát trực tuyến trên HBO Max cùng ngày phát hành rạp ở Mỹ, Villeneuve đã viết một phản hồi gay gắt trên
Variety lên
án hành động của họ. Sau này, ông nói với người viết: “Đó là để giúp
tôi tỉnh táo hơn. Tôi rất tức giận, cay đắng và bị thương,” ông nói về
sự lựa chọn của hãng phim. Ông hiểu những áp lực của đại dịch, nhưng ông
đã làm
Dune thành bức thư tình gửi cho màn ảnh rộng. Đối với
Villeneuve, quyết định phát trực tuyến bộ phim dường như có dấu hiệu của
những mối đe dọa đối với chính truyền thống xinê, điều mà ông coi là
đáp ứng nhu cầu từ ngàn xưa của con người muốn cùng nhau nghe kể chuyện.
Tất
cả những điều này khiến người viết lo lắng khi ngồi xuống bàn bếp cho
cuộc phỏng vấn đầu tiên với nhà đạo diễn, được thực hiện qua Zoom vì đại
dịch. Người viết biết Villeneuve là một nhân vật lý tưởng mãnh liệt, và
trông đợi gặp một đạo diễn tác gia không thân thiện. Nhưng khi khuôn
mặt ông xuất hiện trên màn hình máy tính xách tay, người viết bị ấn
tượng bởi vẻ tử tế và hơi u sầu. Râu tóc rối bù vì đóng cửa giãn
cách, ông mặc cái áo sơ mi hở cổ sẫm màu và đeo tai nghe. Nói
giọng Québec nhẹ nhàng, ông xin lỗi vì tiếng Anh của mình và ban đầu
toát ra thần thái lịch sự thận trọng. Sau đó, người viết phát hiện hóa
ra ông cũng lo lắng về cuộc phỏng vấn như mình. Khi người viếc giơ chiếc
cốc “Chiến tranh giữa các vì sao” lên làm bằng chứng thành tích khoa
học giả tưởng của mình, ông nhướng mày qua cặp kính nửa gọng và cười
toe toét.
Một câu chuyện ngụ ngôn về môi trường, một câu chuyện ngụ ngôn về nền
kinh tế dầu mỏ, một sự phê phán chủ nghĩa thực dân, một lời cảnh báo cho
việc đặt niềm tin của bạn vào những nhà lãnh đạo có uy tín,
Dune kể
câu chuyện Paul Atreides, chàng thiếu niên quý tộc đến một vùng đất xa
xôi; tham gia bộ tộc sa mạc, người Fremen; trở thành đấng cứu thế của
họ; và lãnh đạo họ nổi dậy chống lại những kẻ thực dân áp bức họ. Câu
chuyện của Paul gợi nhớ
Lawrence of Arabia (Herbert chịu ảnh hưởng của T.E. Lawrence) và
Lawrence xuất hiện trong tâm trí người viết lúc xem
Dune.
Mỗi bộ phim là một sử thi địa chính trị xoay quanh nhân vật, đều được
quay ở Wadi Rum của Jordan và mỗi phim là một tụng ca điện ảnh đẹp ngoạn
mục dành cho sa mạc.
Phim của Villeneuve thường thăm lại cảnh sa mạc: cánh đồng muối ở Utah trong phim đầu tiên
Un 32 Août Sur Terre (
August 32nd on Earth); sa mạc Trung Đông của
Incendies; sa mạc Chihuahuan cho
Sicario; những bãi cát dưới sương mù hậu tận thế bao phủ Las Vegas trong
Blade Runner 2049. Khi ông nói cho người viết biết thôi thúc làm
Dune chỉ
là cái cớ để ông quay lại sâu vào sa mạc, ông đã cười. Người viết học
được rằng tiếng cười của Villeneuve thường mào đầu cho những tuyên bố về
việc tìm kiếm sự trung thực. Villeneuve yêu sa mạc vì cảm giác cô lập
mà chúng mang lại, ông giải thích, cách chúng “phản ánh nội tâm của bạn,
và càng đi sâu vào sa mạc, bạn càng đi sâu vào chính mình. Kiểu nội tâm
đó luôn có tác động u uất rất sâu sắc đối với tôi,” ông nói thêm.
“Trong sa mạc, lạ thay tôi lại cảm thấy như ở nhà.” Ông đã vạch ra sự
tương quan với Paul Atreides, do Chalamet đóng trong
Dune. “Lần
đầu tiên Paul tiếp xúc với sa mạc,” Villeneuve giải thích, “cảm giác
quen thuộc đến lạ lùng. Đó là khoảnh khắc khiến tôi vô cùng xúc động.
Thực tế anh ấy đang ở trong một khung cảnh hoàn toàn xa lạ, nhưng anh
cảm thấy như ở nhà.”
Làm Dune chỉ là cái cớ để Villeneuve quay lại sâu vào sa mạc
|
Villeneuve có biệt tài làm cho người ngoài hành tinh trông quen thuộc.
Làm việc với các nhà quay phim nổi tiếng như Roger Deakins, Greig Fraser
và Bradford Young, ông có khả năng phi thường biến khoa học giả tưởng
thành hiện thực sống động. Khi xem bộ phim năm 2016
Arrival của
ông, trong đó nhà ngôn ngữ học do Amy Adams đóng học cách giao tiếp với
những người ngoài hành tinh đến thăm, những con tàu vũ trụ nguyên khối
lơ lửng trên những thung lũng tươi tốt và sương mù bao phủ là điều không
tưởng song chẳng hiểu sao lại hoàn toàn hợp lý.
Arrival cũng
có thể được hiểu là câu chuyện ngụ ngôn tinh tế về sức mạnh của điện
ảnh: Những con người mong manh trong không gian tối tăm đối mặt với một
màn hình sáng phía sau có những hình dạng kỳ lạ di chuyển và nói bằng
một ngôn ngữ hình ảnh, một khi đã được giải mã, sẽ biến đổi thế giới.
“Ông
ấy đang ở trong không gian Christopher Nolan kiêu kỳ độc đáo đó,”
Timothée Chalamet nói. “Không gian của các đạo diễn có thể làm
phim ở cấp độ khổng lồ nhưng không làm mất đi bất kỳ thứ gì — tôi không
nói phẩm chất độc lập, mà là bất cứ gì, phẩm chất đạo diễn tác gia.” Từ
cuộc khám phá tàn khốc về sang chấn tâm lý, danh tính và di sản của bạo
lực trong
Incendies (2010), đến nỗi sợ bị giam cầm trong
Enemy (2013),
trong đó nhân vật của Jake Gyllenhaal chiến đấu với những thứ có vẻ là
tiềm thức của anh trong con người của chính anh nhân đôi, đến khám phá
đáng buồn phiền về quyền lực của đặc quyền ngoại giao trong
Sicario (2015) và suy ngẫm về sự khách quan hóa và ngộ nhận trong
Blade Runner 2049,
phim của Villeneuve chú ý đến nhân vật và địa điểm và luôn có nội dung
sâu sắc, bất kể quy mô hoành tráng đến mức nào. Ông di chuyển dễ dàng
giữa các thể loại — ông nói, tình yêu với xinê đại chúng Mỹ đã khiến ông
xóa bỏ những ranh giới này trong tâm trí. Ông ghét thói hợm hĩnh, ghét
đóng hộp. Ông thở dài khi nói đến từ “thể loại”.
Bỏ qua màn hình xanh của hầu hết các bộ phim khoa học giả tưởng,
Villeneuve quay ở sa mạc Jordan và Các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất, ở
đó các diễn viên đổ mồ hôi trong trang phục cao su dưới cái nóng 120 độ
|
Làm
Dune gặp cơ man là thách thức, đặc biệt cuốn tiểu thuyết
khét tiếng là nghĩa địa của những hy vọng điện ảnh — đến mức cụm từ “The
Curse of Dune” ám ảnh internet. David Lynch đã rất không hài lòng với
bản chuyển thể năm 1984 của mình, có sự tham gia của Kyle MacLachlan và
một Sting khét tiếng, đến mức chối bỏ nó; các kế hoạch chi tiết của
Alejandro Jodorowsky cho một phiên bản kéo dài hơn 10 giờ với sự góp mặt
của Orson Welles, Mick Jagger và Salvador Dalí, không ngạc nhiên khi
chúng chưa bao giờ bắt đầu. (“Tôi không chắc liệu anh ấy thích chuyển
thể
Dune hơn là làm một bộ phim tuyệt vời của Jodorowsky
không,” Villeneuve trầm ngâm. “Tôi không biết liệu anh ấy có thực sự
hứng thú với
Dune không. Còn Lynch, tôi nghĩ cũng hơi giống như vậy, bạn biết không?”)
Villeneuve không nghĩ ông là người duy nhất có thể làm
Dune thỏa
đáng, nhưng với ông, ông nói, đó là “về cuốn sách, cuốn sách, cuốn
sách.” Ông cũng muốn làm cho bộ phim của mình càng thực tế càng tốt,
tránh những điều siêu nhiên. Paul Atreides có thể có tầm nhìn về tương
lai, điều này càng được đề cao khi anh tiếp xúc với hàng hóa có giá trị
nhất của Arrakis, một hợp chất khai thác từ cát sa mạc được gọi là gia
vị, nhưng anh là sinh vật phi thường chứ không phải “phù thủy”,
Villeneuve nói. “Anh ấy chỉ là một người rất nhạy cảm với chất gây ảo
giác.”
Villeneuve và Zendaya trên phim trường Dune ở Jordan vào tháng 4 năm 2019
|
Villeneuve 14 tuổi lúc lần đầu nhìn thấy cuốn sách, một ấn bản có bìa
bắt mắt trong thư viện nhỏ gần trường của ông ở Trois-Rivières, Quebec:
khuôn mặt của một người đàn ông da ngăm với đôi mắt xanh xuyên thấu trên
nền sa mạc xa xôi. Ông nói cuốn sách thật đẹp, nhấc lên một cuốn có bìa
giống y hệt từ bàn làm việc. Ông đã giữ cuốn sách bao năm và đang sử
dụng nó để viết bộ phim thứ hai (
Dune là một cuốn tiểu thuyết
phức tạp nổi tiếng và Villeneuve chỉ đồng ý chuyển thể nếu được chia
thành hai phim). Thậm chí bây giờ nhìn cuốn sách cũng gợi lên những cảm
xúc giống như ông cảm thấy hồi đó: “bí ẩn, cô lập, đơn độc.” Villeneuve
đã mơ ước được làm
Dune từ khi còn là một thiếu niên; ông đã cố
gắng làm cho bộ phim của mình “gần với giấc mơ nhất có thể, và điều đó
rất khó khăn, bởi vì giấc mơ của một thiếu niên rất độc tài. Tôi không
ngờ rằng việc lấy lòng anh chàng đó lại khó đến vậy!”
Trong cuộc
trò chuyện, Villeneuve rất nhiệt tình, cực kỳ hài hước và trung thực đến
mức dễ bị tổn thương. Chẳng mấy chốc cảm giác giống như đang nói chuyện
với một người bạn cũ, đến nỗi người viết bắt đầu kể cho ông nghe chuyện
cuộc sống của chính mình. Khi hỏi Villeneuve về thời thơ ấu của ông,
người viết xin lỗi và giải thích rằng mình mất kiên nhẫn khi mọi người
hỏi về tuổi thơ của chính mình. Nhưng sau đó Villeneuve đã cho người
viết hiểu những ký ức ban đầu có thể định hình hoạt động sáng tạo như
thế nào. Ông kể, khi còn nhỏ ông cùng mẹ ngồi xem chương trình truyền
hình thiếu nhi có tên
Sol et Gobelet. Phim kinh phí thấp, phông
nền màu đen. “Hai chú hề cùng nhau phiêu lưu trong một thế giới tưởng
tượng. Tôi biết sâu thẳm trong tâm hồn mình rằng tôi mang ơn hai chàng
trai này rất nhiều.” Ông nói chương trình truyền hình đó đã thay đổi
cuộc đời ông, rằng bạn có thể nhận ra những ảnh hưởng điện ảnh của ông
là kết hợp đan xen giữa những chú hề này và tác phẩm của các nhà làm
phim khác. Mức độ gợi ý, tính sân khấu, cách trình chiếu ở nhà hát thông
thường, sự tối giản của chúng — thậm chí còn có mối liên hệ trực tiếp
giữa hư vô đen tối của phông nền chương trình truyền hình đó với bối
cảnh sa mạc đỏ của Roger Deakins trong
Blade Runner 2049: “Hễ
chỗ nào trống, tôi đặt cát lên sàn, và Roger lấp đầy không gian bằng một
loại khói, một loại khói cụ thể, vì vậy nó tạo ra sự vô cùng. Và tôi
nhớ mình đã có khoảng thời gian tuyệt vời nhất, và đó là cảm giác vô
cùng, và căng thẳng mà sự trống trải tạo ra.”
Nhà thiết kế sản xuất Dune, Patrice Vermette (trái) cho biết họ đã sử dụng Google Earth để tìm kiếm địa điểm phù hợp cho các cảnh trên hành tinh Arrakis
|
Villeneuve lớn lên ở Gentilly, một ngôi làng nhỏ gần sông St. Lawrence,
nơi có chân trời rộng mở mang đến cho ông khả năng mơ mộng. Tình yêu
khoa học giả tưởng của ông bắt đầu từ một món quà từ dì Huguette lúc 7
tuổi: ba thùng các-tông đầy truyện tranh khoa học giả tưởng của Pháp,
Métal Hurlant, Pilote và những thế giới khác, những thế giới xa xôi do
Moebius, Enki mang đến. Bilal và Jean-Claude Mézières, Philippe
Druillet. Chẳng bao lâu sau, ông sẽ viết những câu chuyện khoa học giả
tưởng trên máy đánh chữ của ông mình — chúng không tốt chút nào, ông nói
với người viết, nghiến nát giấy và “Bốp!” một tiếng bực tức.
Tình
yêu thiên nhiên sâu sắc, khao khát được tiếp xúc với thiên nhiên của
Villeneuve đến từ bà ngoại. Bà là hình mẫu của sự nuôi dưỡng — ông mỉm
cười hoài niệm hình ảnh bà làm vườn:“bé bự giữa vườn hoa!” Cả hai người
bà của Villeneuve đều là “những nhân vật mạnh mẽ. Và rất trái ngược. Một
người là nhân vật opera, người còn lại là người bà nhân từ, ấm áp, thật
tuyệt vời. Tôi nhận ra mình nhận được rất nhiều từ họ, nhưng có rất
nhiều — rất nhiều chứng loạn thần kinh.” Trong những thảo luận đầu tiên
với các biên kịch Eric Roth và Jon Spaihts, tất cả đều rõ ràng rằng
Villeneuve muốn giới thiệu trước về những người phụ nữ trong câu chuyện,
đặc biệt là Lady Jessica, “một nhân vật rất phức tạp — cô ấy có nhiều
kế hoạch.” Là mẹ của Paul, bạn đời của công tước và là thành viên của
Bene Gesserit — quyền lực quan trọng nhất trong truyện — cô là “kiến
trúc sư, nhà tư tưởng, lý do tại sao cuốn tiểu thuyết này tồn tại,”
Villeneuve nói với người viết, thêm: “Cô ấy là một nhà giáo. Cô ấy là
người hướng dẫn, cô ấy là người truyền cảm hứng.”
Villeneuve và Rebecca Ferguson trên trường quay Dune
|
Bene Gesserit không phải là những người định hình lịch sử nhân từ. Paul
Atreides là một phần trong chương trình nhân giống của họ, vai trò cứu
thế của anh ở Arrakis là kết quả của việc họ gieo mầm những câu chuyện
thần thoại hàng nghìn năm trước đó trên hành tinh này. Như Villeneuve
thấy, anh ta là một nạn nhân của chủ nghĩa thực dân tôn giáo, lúc nào
cũng phải nghe theo lời tổ tiên. Người viết nghĩ đến Paul khi Villeneuve
nói về niềm đam mê của chính mình với hành trang ký ức thế hệ.
Villeneuve không coi mình chỉ là sản phẩm của ông cố ông sơ; họ có trong
ông. “Tôi có bản thể của họ. Tôi có nỗi sợ hãi của họ. Tôi có sức nặng
của sự tồn tại của họ.”
Ông dành phần lớn thời thơ ấu trên băng
ghế ngồi xem những đứa trẻ khác chơi khúc côn cầu. Ông không đổ lỗi cho
huấn luyện viên. “Có lẽ tôi đã là,” ông nói vẻ thích thú, “một trong 10
vận động viên khúc côn cầu tệ nhất mọi thời đại ở Canada. Tôi đã, kiểu
như, không biết gì trò chơi đó, bạn biết không?” Những ngày tuyệt vời
nhất là những ngày mưa lớn, khi không thể chơi thể thao và ông có thể
rúc vào căn phòng đầy sách ở nhà. Đóng cửa lại và dành cả ngày để đọc
tiểu thuyết khoa học giả tưởng quả là một thiên đường thuần khiết.
Một
ngày nọ ở trường, Villeneuve bị vỗ vào vai. “Thấy anh chàng kia không?”
một học sinh khác thông báo. “Anh ấy cũng điên như bạn. Anh ấy muốn làm
Chiến tranh giữa các vì sao trong tầng hầm nhà mình vào mùa hè
tới. Tôi nghĩ bạn nên gặp anh ấy.” Chẳng bao lâu sau, Villeneuve trở
thành bạn thân của một đứa trẻ tên là Nicolas Kadima. Lúc những cậu bé
cùng tuổi khác đang hớt cỏ và khám phá các cô gái và bóng đá, thì
Villeneuve và Kadima “không biết gì cả. Chúng tôi giống như những thầy
tu điện ảnh.” Họ dành cả đêm để xem Eisenstein và Godard, bị ám ảnh bởi
Spielberg, Ridley Scott và Kubrick. Họ không làm phim (“Chúng tôi quá
lười biếng cho việc đó”), nhưng họ viết kịch bản phim, vẽ bảng phân cảnh
— Villeneuve vẫn còn một số thứ mà Kadima đã vẽ cho
Dune — và họ mơ mộng.
Villeneuve chỉ đạo Timothée Chalamet (phải) trên trường quay. Chalamet miêu tả ông là “một trong những tâm hồn đẹp nhất”
|
“Mơ mộng dữ dội,” Villeneuve nhớ lại một cách trìu mến. “Có thứ gì ở đó,
nói sao nhỉ, thuần khiết và đẹp đẽ thế nào ấy.” Ngay sau khi bạn
cầm máy quay, bạn học được sự khiêm tốn. “Nhưng trước thời điểm đó, bạn
nghĩ mình là Kubrick tiếp theo.” Villeneuve và Kadima đã ngừng đến nhà
thờ, ông nói với người viết, hy vọng sẽ bị rút phép thông công, nhưng
“sẵn sàng hiến máu của mình cho các vị thần điện ảnh, như Coppola, như
Spielberg, Scorsese.” (Ông thừa nhận bây giờ, khi gặp một số thần tượng
của mình, ông rất xúc động. Villeneuve trở lại như một đứa trẻ, ông giải
thích. “Tôi có thể bật khóc, đôi khi. Lần đầu tiên gặp Spielberg, tôi
đã khóc — ý tôi là, không phải trước mặt anh ấy,” ông nhanh chóng nói
thêm. “Nhưng tôi đã khóc.”)
Villeneuve được kỳ vọng sẽ trở thành
một nhà sinh vật học, nhưng quyết định theo đuổi sở thích trong lĩnh vực
điện ảnh. “Cần phải thoát ra,” ông nói, “và tôi sẽ chán nản nếu không
thoát ra được, đó là sự thật.” Sau khi theo học ngành truyền thông và
điện ảnh tại Đại học Quebec ở Montreal và giành chiến thắng trong cuộc
thi làm phim của Radio-Canada, Villeneuve bắt đầu làm việc tại nơi mà
ông miêu tả là “phòng thí nghiệm tuyệt đẹp” của truyền thống phim tài
liệu người Québec. Người viết hỏi Villeneuve cảm thấy thế nào khi rời xa
cội nguồn văn hóa và sáng tạo của mình? “Đó là một vết thương lớn,” ông
nói, nghiêm túc. “Tôi cảm thấy rạn nứt trong chính mình.” Nhưng ông cảm
thấy phải ra đi. Ông nói, cho đến những năm 1960, việc làm phim ở
Canada tập trung vào dạng phim tài liệu, và giả tưởng tương đối ít được
biết đến. “Có lúc, tôi nhận ra rằng — và là rất kiêu ngạo,” ông thừa
nhận — “ở đây không ai có thể dạy tôi bất cứ điều gì, tôi phải đi ra
ngoài.”
Việc Villeneuve khăng khăng muốn địa điểm trong thế giới thực cho Dune khiến ông phải dành nhiều ngày trên trực thăng bay khảo sát sa mạc
|
Hôm nay, Villeneuve nói, sống ở Montreal nhưng làm việc ở Hollywood, hầu
như ngày nào ông cũng được hỏi: “Này, Denis? Khi nào anh trở lại để làm
phim ở đây? Chúng tôi rất mong được xem một bộ phim bằng tiếng Pháp.”
Nhưng, ông nói, “vấn đề là tôi cảm thấy mình đang ở nhà.” Chính những bộ
phim Mỹ đã khiến Villeneuve cảm động hồi nhỏ, đến nỗi được đặt biệt
danh là Spielberg ở trường. Mãi sau này, ông mới bắt đầu quan tâm đến
điện ảnh châu Âu. (Villeneuve phát hiện ra Làn sóng mới của Pháp khi còn
là một thiếu niên sau khi xem François Truffaut trong
Close Encounters of the Third Kind của Spielberg.)
Với
bộ phim điện ảnh đầu tiên của mình, Villeneuve thú nhận: “Tôi đã cố
gắng gần gũi hơn với cội nguồn của mình. Ảnh hưởng của tôi đến từ châu
Âu nhiều hơn. Nhưng đã có lúc tôi nói: Hãy dừng việc tào lao đó lại! Đó
không phải là tôi! Và khi tôi nhận ra điều đó, thật là tự do hết sức.”
Khoảnh khắc ông hiểu rằng trong thâm tâm ông là một đạo diễn người Mỹ
“là khởi đầu của hạnh phúc thuần khiết. Và đó là nơi tôi bắt đầu có niềm
vui với điện ảnh. Tôi nghĩ tôi đã bắt đầu làm những bộ phim hay hơn. Đó
là nơi tôi bắt đầu trở thành một đạo diễn thực thụ, tôi nghĩ vậy.”
“Tôi không được sợ hãi. Nỗi sợ hãi là kẻ giết chết tâm trí” là câu thoại nổi tiếng nhất trong
Dune.
Nó xuất hiện trên vô số áp phích cổ động, đã được những người thợ xăm
xăm lên nhiều cánh tay không đếm xuể. Nó là một phần kinh nguyện của
Đẳng cấp Bene Gesserit. Bởi vì sợ hãi sẽ xóa tan suy nghĩ, kinh cầu
nguyện nói, phải làm chủ và vứt bỏ sợ hãi.
Dune có sự phù hợp đương đại rõ ràng: Đây là một sử thi sinh thái
cảnh báo chống lại giáo điều tôn giáo và chủ nghĩa đế quốc, đồng thời
khắc họa một dân tộc đau khổ dưới sự chiếm đóng của thực dân, một bộ
phim mà nhân vật chính buộc phải thích nghi với thực tế mới không thì
chết
|
Nhưng đối với Villeneuve, sợ hãi là một cảm xúc chung chung, và điện ảnh
là thứ mà ông đã sử dụng và tiếp tục sử dụng để đánh bại nó. Ông xem
điện ảnh — không chỉ là xem phim, mà còn là hành động tạo ra chúng — là
lực đẩy ông ra khỏi vỏ bọc của mình, đưa ông tiếp xúc với những người
khác. Nếu không có điện ảnh, Villeneuve nói với người viết, có lẽ ông đã
dễ dàng mắc kẹt trong một cái nhà tồi tàn cửa khóa chặt, sợ hãi thế
giới. Ông nói, “Điện ảnh mang lại cho tôi niềm an ủi.” Trán ông nhíu
lại. “An ủi, hoặc ... Tôi không biết từ nào thích hợp.” Trông ông có vẻ
lo lắng. “An ủi? Chính xác thì nó có nghĩa là gì?” Ông tìm kiếm trên máy
tính của mình. Tất nhiên đó là từ đúng.
Đối với Villeneuve, rủi
ro và nguy hiểm là bản chất của tạo hóa. Một trong những bộ phim yêu
thích của ông là phim tài liệu năm 1956 có tên
Le Mystère Picasso
của nhà làm phim người Pháp Henri-Georges Clouzot. “Như một quả bom
trong tâm hồn tôi,” Villeneuve nói với người viết. Trong phim, một
Picasso cởi trần, khi đó đang ở độ tuổi ngoài 70, vẽ trên màn hình được
quay từ phía sau để nhà họa sĩ vô hình, và tất cả những gì bạn có thể
thấy là tác phẩm đang tồn tại, từng dòng, từng nét vẽ, nét vẽ bằng nét
cọ. “Ông ấy có thể vẽ một bức tranh và sau đó thêm gì đó, rồi thêm gì
đó, và thêm gì đó, rồi nói, Đó là một tác phẩm [vớ vẩn] — và chúng ta
đang nói về ba tuần làm việc — và rồi ông phá hủy bức tranh, và vẽ lại,
20 lần.” Xem phim khiến ông vô cùng xúc động. “Bởi vì nó cho thấy sáng
tạo là một hành động dễ bị tổn thương, con đường dẫn đến thành công của
bạn rất hẹp và bạn phải để bản thân thử nghiệm.”
Nhà quay phim Greig Fraser (trái) đã đến dự án ngay sau khi làm The Mandalorian
|
Việc Villeneuve khăng khăng muốn địa điểm trong thế giới thực cho
Dune khiến
ông phải dành nhiều ngày trên trực thăng bay khảo sát sa mạc. “Khi bạn
bay lên trong không trung, có những thứ tự bộc lộ ra, chẳng hạn một số
núi đôi trông giống như hai cụ bà, mà tôi cảm thấy rất gắn kết với bản
chất của bộ phim, và họ trở thành nhân vật đối với tôi,” ông giải thích.
Nhà quay phim Greig Fraser, đã đến dự án ngay sau khi làm
The Mandalorian, phim bộ truyền hình
Chiến tranh giữa các vì sao
được quay gần như hoàn toàn trong trường quay ảo, trong đó máy tính
hiển thị phong cảnh chuyển động liền mạch trên màn hình phía sau diễn
viên. Quy trình này cho đạo diễn quyền kiểm soát tuyệt đối môi trường —
“giải quyết vấn đề [chen vào], như đám mây che phủ, ai đó đặt nhà vệ
sinh di động sai chỗ,” Fraser nói. Khi Fraser đề nghị một số công nghệ
này với Villeneuve, ông đã từ chối. Nhà đạo diễn hình ảnh nói Villeneuve
cần quay bộ phim trong sa mạc thực sự, “để cho tôi tỉnh táo tinh thần,
để có thể truyền cảm hứng cho bản thân tìm lại cảm giác mà tôi đang tìm
kiếm về sự cô lập, về xem xét nội tâm.”
Villeneuve muốn sự chân
thực, chứ không muốn kiểm soát. Ông biết rằng địa điểm thực cũng sẽ thúc
đẩy sáng tạo của nhà quay phim và các diễn viên. Dựng cảnh ở Budapest
như một môi trường bao la và các căn phòng để thực tế vật lý của chúng
có thể khơi dậy ý tưởng, đưa vào màn trình diễn của các diễn viên. “Bạn
không thể có được điều đó với màn hình xanh,” ông nói. “Không thể. Không
phải cho tôi. Có thể với một số người được, nhưng tôi thì không.” Thông
thường, khi ghi hình tại điểm quay, Greig Fraser nói với người viết,
mọi người luôn có kế hoạch dự phòng, nhỡ khi. Nhưng với Denis, ông nói,
triết lý hoàn toàn ngược lại. “Chà, ở Abu Dhabi, đến từ đỉnh cao — và
Denis là vậy đó — tất cả chúng tôi đều nói: ‘Không. Chúng tôi sẽ không
làm. Về cơ bản chúng ta sẽ bước trên cầu tàu, và sẽ không có lựa chọn
nào cho bản thân.’ Khi tôi nói không có lựa chọn, à thì, trước hết chúng
tôi có kịch bản tuyệt hay, diễn viên tuyệt đỉnh, trong những trang phục
tuyệt đẹp, ở một địa điểm quay tuyệt vời — ý tôi là, không phải chúng
tôi không có bất kỳ lựa chọn nào. Chúng tôi đã loại bỏ những kế hoạch dự
phòng vô nghĩa.”
Josh Brolin và Timothée Chalamet trong Dune
|
Nhà thiết kế sản xuất
Dune, Patrice Vermette cho biết họ đã sử
dụng Google Earth để tìm kiếm địa điểm phù hợp cho các cảnh trên hành
tinh Arrakis: một sa mạc với các thành bằng đá mà người Fremen sẽ sử
dụng làm nơi trú ẩn tránh cái nóng khắc nghiệt. Họ đã tìm thấy những ứng
viên đầy triển vọng ở Iran, Chad, Mauritania, Libya. “Khá gian nan,”
anh thừa nhận. Họ kết Wadi Rum, “giống như một triển lãm thương mại các
tường thành đá,” nhưng nó thiếu đụn cát. Nhóm nghiên cứu đã thu thập mẫu
cát từ Jordan trong chai nước để chúng có thể phù hợp với màu sắc của
cát ở địa điểm khác, và kết quả là ở những cồn cát mênh mông của sa mạc
Rub’ Al Khali ở Abu Dhabi.
Cái sự khăng khăng muốn quay phim
trong môi trường thực tế của Villeneuve được hình thành bởi công việc
ban đầu của ông với tư cách là một nhà làm phim tài liệu. Vào đầu những
năm 1990, ông đến Đảo Ellesmere trong một êkíp nhỏ cùng với nhà làm phim
Pierre Perrault người Québéc để quay bộ phim tài liệu lịch sử tự nhiên
thơ mộng, có nhan đề
Cornouailles, nói về loài bò xạ hương bảo
vệ lãnh thổ của chúng. “Đó là về những người Canada gốc Pháp và người
Mỹ,” ông hóm hỉnh nói. Ông đã ở đó mang theo giá ba chân và nấu súp,
nhưng trải nghiệm này có tác dụng thay đổi. “Tôi đã thấy mọi thứ ở đó,”
ông nói, “mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại trong đời. Và sẽ không bao giờ
trải qua nữa. Để đi bộ bên trong một sông băng, những điều rất khó để
mô tả — nhưng nó giống như đang ở trên một hành tinh khác.” Giống như sa
mạc, lãnh nguyên có tác động tâm lý sâu sắc đến ông, truyền cho ông cảm
giác khiêm tốn, cảm giác ông đang “nhìn thấy trái đất không có lớp vỏ.
Như thể bạn là lõi, bạn tiếp xúc với thời gian... với vô hạn và thời
gian.”
Villeneuve và Zendaya trên trường quay. Ông truyền cảm hứng về sự tận tâm mãnh liệt cho những người làm việc với ông
|
Quay
Cornouailles đã dạy Villeneuve nắm bắt được những nét đặc
sắc của một địa điểm trong đời thực, “cảnh quan trước mặt bạn mỗi ngày
đều hoàn toàn khác biệt, tùy theo ánh sáng và bản chất của các yếu tố” —
và theo nghĩa hiện sinh hơn, lãnh nguyên đã cho thấy chúng ta nhỏ bé và
tầm thường như thế nào, một trải nghiệm quen thuộc với nhiều trong số
những người liên quan đến
Dune.
Patrice Vermette đã nói
khi bước vào Wadi Rum, “có một thứ đập vào mắt bạn — bạn phải hạ mình
trước cảnh quan hùng vĩ. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời về mặt tinh
thần chỉ có ở đó.” Sharon Duncan-Brewster, người đóng vai Liet-Kynes,
nhà hành tinh học của đế quốc, nhận thấy cảnh quay ảnh hưởng đến tâm lý
cũng như sinh lý: “Ban đầu thì rất dữ dội, nhưng tất nhiên cơ thể sẽ
thích nghi thôi. Và một khi bạn hòa hợp với nó — và tôi nghĩ tuyệt vời
làm sao vì chính xác câu chuyện này kể về điều đó — là khi bạn nói,
‘Nóng quá, và không có cách nào không đổ mồ hôi, đúng không? Và hãy uống
nước, và nhớ đi tiểu khi có thể,’” cô nói, cô bắt đầu thấy những cảnh
quan này thật kỳ diệu, bí ẩn và gây hoang mang.
Quay phim ở những
địa điểm khắc nghiệt này đã rèn luyện tinh thần cộng đồng mạnh mẽ nơi
dàn diễn viên, đoàn làm phim và êkíp sản xuất. Chalamet giải thích: “Nếu
chúng tôi quay ở những bãi đá mờ ở Jordan, bạn sẽ thấy Denis nhặt pin
máy ảnh. Ai làm việc nấy và giúp đỡ nhau.” Duncan-Brewster đồng ý, chỉ
ra rằng đối với Villeneuve, “không quan trọng đó là ai: Miễn là bạn ở
trong đội, bạn là đồng đội.”
Sharon Duncan-Brewster, người đóng vai Liet-Kynes, nhà hành tinh học
của đế quốc, nhận thấy cảnh quay ảnh hưởng đến tâm lý cũng như sinh lý
|
Villeneuve truyền cảm hứng về sự tận tâm mãnh liệt cho những người làm
việc với ông. “Một con người đáng kinh ngạc,” Josh Brolin nói. Timothée
Chalamet miêu tả ông là “một trong những tâm hồn đẹp nhất”. “Một nhà ảo
thuật,” Rebecca Ferguson nói. “Thiên tài.” Biên kịch Jon Spaihts miêu tả
ông là người “hào phóng, khiêm tốn và quyến rũ và có mọi thứ bạn có thể
muốn ở một đối tác sáng tạo.” Người duy nhất nói khác là nhà thiết kế
sản xuất, Patrice Villette, một trong những người bạn và cộng tác viên
lâu năm của Villeneuve. “Ông ấy là quái vật,” anh ta nghiêm nghị nói rồi
bật cười vì sự lố bịch của câu nói này.
Villeneuve giải thích, trọng tâm của
Dune là
sự cần thiết thích nghi: cách tiến hóa đòi hỏi tiếp xúc với những người
khác. Paul trưởng thành nhờ thích nghi với môi trường sa mạc thù địch
của Arrakis, giải phóng bản thân thoát khỏi quá khứ bằng cách tham gia
vào cộng đồng Fremen và học hỏi từ họ. “Đối với tôi đó là một điều tuyệt
đẹp, nghe có vẻ ngây ngô và đơn giản,” ông nói, “nhưng cần có những
người khác thì ta mới phát triển.” Villeneuve bị cuốn hút bởi không gian
tích điện được tạo ra khi một nền văn hóa này chạm trán với một nền văn
hóa khác, và đáp lại thì cả hai bên đều phải thay đổi tính cách và bản
sắc.
Nhưng không chỉ bản sắc được thỏa hiệp trong không gian đó,
mà còn là nơi mà sự sáng tạo được hiện thực hóa. Sáng tạo nghệ thuật
được sinh ra trong không gian giữa con người và cảnh vật, giữa bản thân
và người khác, giữa những tâm trí tham gia vào cùng một dự án. Bất kể bộ
phim có thể là giấc mơ riêng của đạo diễn đến đâu, đối với Villeneuve
niềm vui điện ảnh sâu sắc nhất là điều kỳ diệu đến từ sự hợp tác. Đối
với Villeneuve, quá trình này là thể chất, bản năng và trực giác. Khi
đại dịch xảy ra khiến ông không thể làm việc cùng phòng với biên tập
viên lâu năm của mình, Joe Walker, ông thấy làm việc ảo thật vất vả.
Josh Brolin, bạn bè thân thiết với Villeneuve, người nửa đêm 3 giờ
sáng bị nhà đạo diễn dựng dậy gọi sang trao đổi về nhân vật của anh
|
“Đâu có giống nhau,” ông giữ lập trường. “Giống như chơi nhạc.” Trong
khi chỉnh sửa, bạn cần “cảm nhận người kia, cảm nhận phản ứng của anh
ấy, cảm nhận phản ứng của chính bạn. Có rất nhiều ý tưởng mà Joe và tôi
cùng có, tôi không biết là ý tưởng của anh ấy hay ý tưởng của tôi — nó
đến từ việc cả hai chúng tôi đều ở chung một chỗ. Đó là điều tôi yêu
thích nhất về điện ảnh.”
Josh Brolin đã nói với vẻ thích thú
thích thú về hậu quả của nhu cầu hiện diện thể chất của Villeneuve trong
khi cộng tác. “Chúng tôi là bạn bè và thân thiết, nhưng khi bạn nhận
được cuộc gọi lúc 3 giờ sáng và anh ấy bảo: ‘Bạn ơi, tôi vừa có một giấc
mơ. Tôi có một giấc mơ. ... Tôi đã có ý tưởng hoàn toàn mới cho Gurney,
và tôi nghĩ cậu nên đến đây và chúng ta nói chuyện.” Khi Brolin trả
lời, “Không, không, không, cứ nói qua điện thoại đi!” thì anh kể rằng
Villeneuve “bảo, ‘Không được, cậu cần phải qua đây.’ Tôi nói: ‘Không
đâu! Cứ nói qua điện thoại đi! Bây giờ là nửa đêm, tôi không muốn qua
chỗ anh.’ Và anh ấy nói: ‘Không, không, không! Không hiệu quả đâu!’”
Cuối cùng, Brolin phải qua chỗ Villeneuve và họ nói chuyện và viết cùng
nhau. Brolin nói, với bất kỳ ai khác, kiểu hành xử này không tự nhiên,
nhưng với Villeneuve thì không. “Đối với tôi Denis là một trong những
người mà bạn biết anh ta thực sự là một con cừu đen. Giống như, nếu
không vậy thì, điều gì sẽ xảy ra, anh ấy sẽ làm gì? Nếu không có khả
năng vận dụng trí tưởng tượng, sự nhạy cảm của anh ấy, tính dễ tổn
thương của anh ấy, bạn biết đấy, tôi không biết, bạn biết không? Anh ấy
chỉ là. ... Anh ấy bay bổng, Denis bay bổng. Và theo một cách mà tôi
thấy thật đẹp, thật cuốn hút và thật dịu dàng, mặc dù anh có quát mắng
tôi và tôi đã mắng lại anh ấy, điều đó không quan trọng. Điều đó không
quan trọng bởi vì nó đến từ một tình cảm thực sự.”
Vào một buổi
chiều, người viết kể với Villeneuve về việc, khi còn nhỏ, người viết đã
phát triển nỗi ám ảnh với các nhà máy điện hạt nhân tại Sizewell ở
Suffolk, Anh, có thể nhìn thấy từ thị trấn ven biển mà cả nhà đi nghỉ.
Người viết đã bị khuất phục bởi sức mạnh không thể tưởng tượng và sự
nguy hiểm mà nó nắm giữ, và nói với Villeneuve rằng những con tàu khổng
lồ trong
Arrival và
Dune đã mang lại một cảm giác giống nhau kỳ lạ.
“Có một nỗi kinh hoàng mà theo tiềm thức tôi đang đưa lên màn ảnh,”
Villeneuve nhớ lại những lời trấn an của cha mình rằng nhà máy điện đó
an toàn
|
Người viết biết Villeneuve lớn lên gần một nhà máy như vậy và tự hỏi
liệu có mối liên hệ nào không. Villeneuve bật cười ngạc nhiên và thích
thú. “Anh đã nói ra rồi, và tôi cảm thấy chạm điện trong não — tôi chưa
bao giờ liên tưởng chuyện này,” ông nói. Nhưng, vâng, ông tiếp tục, có
mối liên hệ giữa những gì ông cảm nhận ở hai tòa tháp bê tông của nhà
máy và những con tàu được đóng cho
Arrival và
Dune.
“Có một nỗi kinh hoàng mà theo tiềm thức tôi đang đưa lên màn ảnh.” Ông
nhớ lại những lời trấn an của cha mình rằng nhà máy điện đó an toàn,
nhưng luôn cảm thấy cha đang diễn ra cái vẻ tin rằng tất cả năng lượng
sẽ được giữ ở đó một cách an toàn. “Tôi sinh ra ở nơi có hai cái tháp,”
ông giải thích, “tháp nhà thờ và nhà máy điện hạt nhân.” Mối liên hệ
giữa rủi ro, nỗi sợ hãi, thế hệ, sự sáng tạo, sự hủy diệt và ký ức đã cũ
và sâu thẳm trong Villeneuve. Bất chấp mối đe dọa về tận thế hạt nhân,
“chúng tôi vô tội,” Villeneuve nói về thời thơ ấu của mình ở Gentilly.
“Chúng tôi đã hy vọng.” Như nhà hoạt động Mariame Kaba đã nói, hy vọng
là một nguyên tắc và rất khó duy trì. Để giữ hy vọng tương lai tồn tại,
chúng ta phải coi đó là điều vẫn còn chưa chắc chắn, phải tin rằng hành
động chung, tập thể của con người có thể ngăn chặn thảm họa.
Dune có
sự phù hợp đương đại rõ ràng: Đây là một sử thi sinh thái cảnh báo
chống lại giáo điều tôn giáo và chủ nghĩa đế quốc, đồng thời khắc họa
một dân tộc đau khổ dưới sự chiếm đóng của thực dân, một bộ phim mà nhân
vật chính buộc phải thích nghi với thực tế mới không thì chết. Khi
Villeneuve miêu tả
Dune là “câu chuyện của tuổi mới lớn”, có
cảm giác không chỉ là câu chuyện về tuổi trưởng thành của Paul Atreides.
Cụm từ này nói một cách tổng quát hơn về nhu cầu của chúng ta là phải
thích nghi và tiến hóa, khắc phục cách chúng ta đã luôn sống, để sinh
tồn. Điều kỳ lạ nhất xảy ra sau khi người viết xem
Dune vào mùa hè này:
Nó đi vào một phần ký ức khác với những bộ phim thường làm. Nó giống như
một tin tức. Những hình ảnh từ nó đã bất ngờ trở thành một phần trong
cách mà người viết sẽ luôn nhớ về mùa hè và mùa thu năm nay: hình ảnh
những con tàu bốc cháy và những bãi cát lấp lánh xen với đám cháy rừng,
những di sản khủng khiếp của tội ác thực dân, những cuộc chiến thất bại,
tiếng trống đại dịch không ngừng vang lên, những con sóng lòng nhiệt
thành tôn giáo và tân tôn giáo được thúc đẩy bởi bất bình đẳng xã hội và
kiến thức cơ bản liên tục, đáng sợ rằng khí hậu đang sụp đổ xung
quanh chúng ta.
Dune phản ánh thì ít mà khúc xạ thực tế mới nhiều, chói chang bởi bụi và hình bóng sa mạc
|
Dune luôn là một cuốn tiểu thuyết ngụ ngôn; một trong những mục
tiêu chính của khoa học giả tưởng là dựng tấm gương u ám soi vào văn
hóa. Nhưng bằng cách nào đó,
Dune đã trở thành một phần của thế
giới đối với người viết, phản ánh thì ít mà khúc xạ thực tế mới nhiều,
chói chang bởi bụi và hình bóng sa mạc.
Dịch: © Hải Đăng @Quaivatdienanh.com
Nguồn: The New York Times