Sâu trong khuôn viên của hãng phim 20th Century Fox, cách xa nơi những
nhà lãnh đạo quyết định phải mài vuốt Wolverine thế nào hay làm thế nào
để khiến Alvin có giọng nói của sóc, là một khu vực với mục tiêu bí ẩn
hơn.
Đầy những màn hình và bộ kính chụp nửa đầu, đây là nơi một số nhà làm
phim được chọn lọc, gồm “nhà tương lai” của Fox, Ted Schilowitz, đang
khám phá những khả năng của kỹ thật số. Khu vực này là Phòng thí nghiệm
Đổi mới Fox, nhưng được gọi với tên thân mật hơn là Boong-ke.
Cái tên này chỉ gợi tưởng tới một trong những nhiệm vụ chính của khư
vực: ghép những lời hứa hẹn của điện ảnh thực tế ảo với những yêu cầu
cấp bách của một hãng phim thời đại.
Boong-ke này là nơi các lãnh đạo lên lên cốt truyện cho một bộ phim ngắn
Wild dựa
theo phim điện ảnh cùng tên với các diễn viên Reese Witherspoon và
Laura Dern, được đề cử Oscar năm 2014; đây cũng là nơi họ đang muốn làm
một bộ phim thực tế ảo ngắn dự tính ra mắt cùng thời điểm với
The Martian của Ridley Scott.
“Boong-ke
là nơi thật tuyệt vời, và bạn phải đi hỏi nó ở đâu, vì nó ở một nơi cực
kỳ bí mật so với các phòng thí nghiệm khác,” Schilowitz, người đồng
sáng lập công ty đằng sau công nghệ đời mới Red Camera trước khi tới
Fox, cho biết. “Những người làm việc ở đây nhiều khi còn không biết họ
đang thực sự làm dự án gì.”
Ở các hãng phim như Fox, ở các trụ
sở khắp Thung lũng Silicon, và ở các văn phòng đạo diễn, một lời yêu cầu
cấp bách đang được đặt ra. Thực tế ảo (virtual reality) đang ngày càng
có vẻ sẽ nhanh trở nên phổ biến – công nghệ mới này từng được hoan
nghênh rực rỡ tại Hội nghị Di động Thế giới tại Barcelona gần đây – bây
giờ cuộc đua là nhào nắn, và lên định nghĩa, cho hiện được đang được gọi
là điện ảnh thực tế ảo (
VR cinema).
Schilowitz và các
cộng sự đang trong quá trình đảm bảo rằng thực tế ảo – một hiện tượng
thường được tâng bốc nhưng dường như chưa bao giờ đáp ứng được – cuối
cùng cũng phải trở thành thứ họ tin nó có thể trở thành: tạo thay đổi
lớn trong ngành điện ảnh và tương lai của điện ảnh, truyền hình.
Thay đổi bài toánTrong hơn 100 năm qua, giải trí trên
màn ảnh đã được tiếp thu chỉ theo duy nhất một cách – một màn hình hình
chữ nhật được treo trước mắt khán giả. Kích cỡ màn hình thay đổi, và
những gì xuất hiện trên đó đã tiến bộ theo từng thập kỷ.
Tuy
vậy, thực tế ảo có thể thay đổi cả bài toán đó. Bằng cách thể hiện những
hình ảnh kia – kết hợp kính và những điện thoại thông minh thế hệ mới –
với sự tương tác 360 độ, một kiểu đắm chìm trong câu chuyện mới được
giới thiệu. Sử dụng một thứ máy móc cho phép trải nghiệm thực tế ảo để
xem phim, khán giả sẽ không chỉ được thưởng thức hình ảnh sâu sống động
mà còn có những trải nghiệm khác rõ ràng hơn rất nhiều.
Một cái
ngước nhìn lên cao không khiến bạn chỉ thấy trần nhà rạp chiếu phim, mà
là bầu trời của cảnh phim bạn đang xem. Quay đầu một cái bạn không còn
nhìn thấy thằng nhóc ngồi bên cạnh nữa mà là một chiều sâu khác của thế
giới phim bạn đang xem.
Hiệu ứng đơn giản nhưng mạnh mẽ một cách không lường được. Không có cách nào để thoát khỏi thế giới của một bộ phim thực tế ảo.
Tới
nay, nhiều người đã ít nhiều nghe nói tới thực tế ảo. Nếu chưa, đây là
một chút tóm tắt. Thực tế ảo chỉ một chuỗi những phát triển công nghệ
cho chúng ta những tiến bộ vượt bậc trong vài năm gần đây mà cả thập kỷ
trước kia chưa từng đáp ứng được: đáng nói nhất là qua đôi kính Rift của
hãng Oculus có trụ sở tại Orange County, và những công nghệ khác như
kính Vive của HTC, và những dụng cụ phù hợp hơn với xem phim ở nhà như
ứng dụng Google Cardboard cho điện thoại thông minh. Trải nghiệm thực tế
ảo ngày nay ít gây chóng mặt hơn bao giờ hết.
Bộ kính Oculus dùng để xem phim thực tế ảo
Ngoài những ứng dụng cho điện thoại thông minh (Oculus cũng có ứng dụng
cho điện thoại Samsung), trên thị trường người tiêu dùng không hề bán
những bộ kính chỉ dành riêng cho thực tế ảo. Nhưng với việc Rift có thể
ra mắt thị trường trong thời gian tới, có thể sớm nhất là ngay trong năm
nay, với giá chỉ 200 đến 400 đôla và Vive có thể theo sau ngay sau đó.
Nhiều chuyên gia cho biết, chỉ không lâu sau đó thôi, thực tế ảo sẽ trở
thành cách xem phim phổ biến. Điều này thúc đẩy các hãng phim khẩn
trương lên kế hoạch làm những bộ phim mà có thể cho phép khán giả thưởng
thức với những bộ kính kia.
Vì vậy, một số bộ phận trong ngành
điện ảnh, với một tốc độ chậm hơn Thung lũng Silicon nhưng nhanh hơn
tốc độ thường thấy của Hollywood, hiện đang thúc đẩy nỗ lực nghiên cứu
thực tế ảo để đưa phim và các trò chơi điện tử của mình vào với thế giới
thực tế ảo. Các nhà làm phim hàng đầu như Mark Romanek, một người vận
động thực tế ảo từ lúc ban đầu, và Robert Stromberg, từng hợp tác với
chuyên gia kỹ xảo Chris Edwards để tạo một công ty chuyên về thực tế ảo,
đã bắt đầu lên kế hoạch các bộ phim theo phong cách mới này; đạo diễn
Star Trek 3
Justin Lin (hiện đang nỗ lực làm một bộ phim “liên quan” tới thực tế
ảo) và nhà làm phim Megan Ellison cũng đã mở một ban thực tế ảo trong
các hãng phim của mình.
Một số công ty công nghệ như Jaunt (từng làm phim
Kaiju Fury)
và Oculus do Facebook sở hữu, hiện đang vươn xa khỏi thế giới lập trình
sang thế giới làm phim. Năm ngoái, Oculus đã thu nhập một số tài năng
sáng tạo nhiều hứa hẹn nhất của Pixar hãng hãng của họ làm những phim
ngắn chỉ dành riêng cho dụng cụ của Oculus. Họ hiện đang có ít nhất năm
dự án phim đang được hoàn thiện. (Trong khi những phim này về lý thuyết
vẫn có thể được chiếu theo cách truyền thống, Oculus cũng như các hãng
tương tự, cho rằng nội dung phim thực tế ảo quá được đặc biệt hóa để có
thể chiếu một cách truyền thống mà hiệu quả.)
Các nhà làm phim
tiên phong như Chris Milk và bộ đôi người Canada-Pháp Felix và Paul, đã
từng làm nội dung thực tế ảo trong vài năm, hiện đang có những bước tiến
vào thế giới điện ảnh phổ biến của Hollywood. (Felix và Paul đã làm
phim
Wild với Witherspoon và Fox, trong khi Milk đang có hợp đồng hợp tác với hãng phim Ellison.)
Wild
Nhưng việc ai đang cố gắng nỗ lực thúc đẩy thực tế ảo trở nên phổ biến
không quan trọng bằng việc những nỗ lực đó sẽ có nghĩa gì – những lựa
chọn và vấn đề chúng đưa ra.
Công nghệ và sáng tạo đang lại gặp
nhau theo một cách hoàn toàn mới, vậy công nghệ thực tế ảo sẽ tạo một
trải nghiệm kể chuyện mới, hay chỉ là một thứ công nghệ thử nghiệm?
Những thể loại phim nào phù hợp nhất với cách thưởng thức điện ảnh toàn
diện này? Thể loại nào hoàn toàn không hợp?
Đó là những câu hỏi
sâu sắc hơn nhiều. Trong những phim trường Hollywood, mỗi ngày các nhà
làm phim và chuyên gia hoạt hình đang làm những phim ngày càng tiên
tiến. Nhưng họ ít khi dừng lại và tự hỏi nếu quá thành công thì sẽ thế
nào? Việc gì xảy ra nếu phim ảnh hứa hẹn đưa bạn tới một thực tế mà bạn
thật ra không muốn trải nghiệm?
Quá nhiều phim thực tế ảoTại
Liên hoan phim Sundance vào tháng Một vừa qua, một số phim thực tế ảo
đã được ra mắt. Không có phim nào gây nhiều tranh cãi như
Perspective.
Một nhà làm phim truyền thống, Rose Troche (
The Safety of Objects)
đã kết hợp với một chuyên gia với tư duy hướng về công nghệ hơn Morris
May cho ra mắt một bộ phim ngắn cho phép người xem tham gia một buổi
tiệc của sinh viên – cho phép khán giả trả nghiệm bản thân trong vai một
người đàn ông tham gia một cuộc ẩu đả, rồi một cô gái say khướt bị
chính người này và một số bạn nam khác tấn công.
Perspective là
cách kể chuyện thực tế ảo theo ngôi thứ nhất điển hình, với mục đích
khiến khán giả trở thành người tham gia vào thế giới này, khi bạn nhìn
xuống tay hay giày của mình, rõ ràng bạn thấy đó là tay hay giày của
mình. Đó là một trải nghiệm có thể khiến khản giả mất phương hướng và
chóng mặt – thậm chí là cảm giác bị xâm phạm.
Trong cảnh phim Perspective, người xem thực sự như đứng trong phòng với các nhân vật
Và đó là cố tình. Troche và May đang muốn đưa ta vào chính khoảnh khắc
đó, sử dụng công nghệ thực tế ảo hoàn toàn mới để tạo tiếng nói co những
trải nghiệm mà chỉ người trải qua nó mới nhận thức được hết. “Có nhiều
người nói với chúng tôi là ‘Tại sao anh chị lại vừa cưỡng hiếp thị giác
của tôi như vậy?’” Troche cho biết. “Nhưng phần lớn phản hồi là tích
cực. Chúng tôi chỉ đang muốn cho bạn một góc nhìn khác.”
Nhưng
câu hỏi kia, ở đây mang tính đạo đức, cũng có thể trở thành những câu
hỏi về cảm xúc. Thực tế ảo cho phép người tiếp thu nó được trải nghiệm
chính những gì nhân vật đang trải qua một cách rất gần gũi – có thể tạo
một vấn đề khó lường với những phim tâm lý hay hài với những phong cách
kể chuyện có thể tạo trải nghiệm quá thật trong thực tế ảo.
Các
nhà làm phim cũng phải đối mặt với thách thức làm thế nào để khiến cách
kể chuyện của mình trở nên hiệu quả hơn khi khán giả có thể nhìn khắp
nơi, thấy từng chi tiết qua những cảnh quay dài, thay vì được chứng kiến
những góc quay hẹp hơn được chắp ghép với nhau. Vì, nếu tất cả mọi thứ
có thể trở thành thực, thì có thứ gì thật sự thật không?
Những nhà tiên phong trong lĩnh vực thực tế ảo cho biết một số vấn đề này có thể biến thành cơ hội.
“Một bộ phim truyền hình như
The Wire
có thể khám phá các chủ đề này, nhưng trong một cốt truyện phụ liên
quan tới câu truyện trung tâm,” David Greenbaum, một lãnh đạo tại Fox
Searchlight từng giám sát sản xuất
Wild và hiện đang làm việc
với Schilowitz, Chủ tịch Fox Home Entertainment Mike Dunn và giám đốc
hậu kỳ của Fox, Ted Gagliano, trong boong-ke, cho biết. “Tôi không chắc
có thể khẳng định thực tế ảo thực sự khác với việc kể chuyện trên truyền
hình một cách mở rộng. Nó khiến chúng ta chuyển tải một câu chuyện phức
tạm hơn trong giải trí truyền thống.”
Schilowitz thêm rằng “một phần lớn những việc này là sử dụng những tiểu
xảo trong kịch nói và những phương pháp kể chuyện cũ thời xưa, nhưng
theo phong cách hiện đại.”
Nhưng nhiều người khác cũng khuyến
cáo rằng kể chuyện bằng thực kế ảo nên được nhìn nhận là một phong cách
hoàn toàn mới mang tính cách mạng.
“Trong nhiều thế kỷ, việc kể
chuyện là khi người ta ngồi xuống và kể cho bạn nghe câu truyện về vụ
đi săn trâu,” Danfung Dennis, nhà làm phim tài liệu từng được đề cử
Oscar và chủ hãng thực tế ảo Condition One, cho biết. “Với thực tế ảo,
bạn thực sự tham gia vụ đi săn đó.”
Hay, như Nonny de la Pena nói, “Nếu nhìn
Spider-Man hay
Vertigo, bạn
cảm thấy gì khi bạn chứng tiến những sự kiện đó diễn ra trên màn ảnh,
và hãy tưởng tượng thực sự bạn sẽ cảm thấy thế nào khi chính mình là
người đứng trên mép tầng thượng tòa nhà cao tầng đó.”
de la
Pena, được gọi là mẹ đỡ đầu của thực tế ảo, đã là người đứng ra mở đường
cho một số đổi mới quan trọng trong phòng thí nghiệm của bà tại Đại học
Nam California, và hiện đang thảo luận với một số nhà làm phim hàng đầu
về những dự án phim thực tế ảo. Bà nghĩ rằng bộ kính thực tế ảo sẽ được
phổ biến đầu tiên cho mục đích giải trí, rồi sau đó là viễn thông.
Các
nhà làm phim thực tế ảo cũng thích nói về thứ họ gọi là “tương tác vô
hình” – tức là khi bộ phim thay đổi theo những cách nhỏ tùy theo hành
động người xem. Trong phim ngắn
Wild, nhân vật của Laura Dern chỉ xuất hiện khi người xem nhìn về hướng cô; nếu người xem không nhìn, cô sẽ không xuất hiện.
Cảnh trong pim VR Birdly, phim VR giới thiệu ở Liên hoan phim Sundance 2015
Hãy nghĩ rằng đây là một kiểu khiến bộ phim trở nên độc đáo cho mỗi
người, nhưng lại đặt ra câu hỏi khác: nếu tôi và bạn xem một bộ phim
cùng tên theo cách khác nhau, vậy chúng ta có thực sự đang xem cùng một
bộ phim?
Háo hứcThực tế ảo đang chuyển động
rất nhanh. Chỉ tuần trước khi bài báo này được đăng, Samsung và Cirque
du Soleil đã ký hợp đồng hợp tác, và Lionsgate và Samsung cũng có kế
hoạch một phiên bản thực tế ảo ngắn cho
Insurgent.
Những
người làm công nghệ thực tế ảo tin rằng công nghệ này sẽ thay đổi cách
chúng ta trải nghiệm giải trí, nhất là những dạng giải trí ngắn. Đeo bộ
kính lên, thật dễ thật hiểu tại sao. Cảm giác thích thú khi thực sự ở
trong căn phòng đó thật sự rất sâu sắc. Trong những tìm hiểu của riêng
mình, người viết chưa từng gặp ai thích thú với một bộ phim tới vậy
trước khi đeo đôi kính lên; cũng chưa thấy ai đeo rồi mà tránh được cảm
giác hăng hái muốn trải nghiệm thêm.
Những người sử dụng hệ
thống này mãi không tìm được một cách ví von để tả trải nghiệm đó. Thật
ra nó cũng là một phát triển bằng tầm thêm âm thanh vào phim câm; đây là
sự tiến triển vào một thế giới hình ảnh chuyển động khi trwocs đây
chúng ta chỉ mới biết những hình ảnh tĩnh. (Không giống 3D, vì 3D chỉ
khiến mọi thứ trông nổi bật hơn chứ không thực tế hơn.)
“Kể cả
những trải nghiệm xấu cũng trở nên xấu một cách đáng nhớ hơn,” Saschka
Unseld của Oculus, từng làm một thời gian dài ở Pixar, hiện đang quản lý
ban nội dung mới của Oculus, cho biết. (Tất cả các nỗ lực của Oculus
tới nay là với hoạt hình. Quay phim người thật với công nghệ này phức
tạp hơn nhiều.)
Way to Go, một bộ phim thực tế ảo của đạo diễn người Canada Vincent Morisset
Dù một trải nghiệm điện ảnh 360 độ có thể đửaa nhiều khả năng hơn, điều
ngược lại cũng là có thể. “Thực tế ảo có thể đưa bạn hẳn vào một thế
giới mới, nhưng bạn không thể khiến khán giả bỏ qua việc một nhân vật bị
bắn trong phòng đó,” James Steward, một nhà làm phim độc lập đang làm
phim thực tế ảo
Outfoxed cho biết.
Vì khán giả giờ có thể đi khắp nơi trong thế giới này, họ cần được dẫn đường để tránh đi lạc khỏi câu chuyện hoàn toàn.
Các nhà làm phim đang cố gắng khám phá cách làm điều này. Trong
Way to Go, một
bộ phim hoạt hình của đạo diễn người Canada Vincent Morisset và các
nghệ sĩ Quebec khác, khán giả chuyển động như thế trong một trò chơi
điện tử, lang thang qua nhiều phong cảnh. Trải nghiệm điện ảnh thật
phong phú, đầy ý nghĩa và các phép ẩn dụ. Nhưng vẫn cần các đường thẳng
để hướng dẫn cho người xem, khiến họ tránh lang thang tới những nơi
không cần thiết. Đây cũng như tượng trưng cho một phong cách làm phim
đang mở ra nhiều khả năng mới, nhưng các nhà làm phim vẫn cần một hướng
đi rõ ràng.
“Chúng tôi vẫn muốn phim mang cảm giác là phim,”
Morisset nói. “Vì thế khán giả có được bao nhiêu tự do và chúng tôi dẫn
dắt câu chuyện thế nào?... Đó là câu hỏi nhiều người đang đặt ra.”
Dịch: © Xuân Hiền @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Los Angeles Times