Trước khi Lý Tiểu Long làm cho phim kung fu — giao chiến tay không — trở
nên đại chúng, điện ảnh võ thuật Hồng Kông toàn là phim võ hiệp — giao
chiến có vũ khí, thường là đao kiếm
Các ngôi sao võ thuật ngày nay rất nổi tiếng, còn các tiền bối của họ
thì sao? Những đạo diễn hàng đầu? Nên xem những phim nào? Thắc mắc của
bạn sẽ được giải đáp ở đây.
Từ Phương trong A Touch of Zen / Nữ hiệp (1971); Lý Tiểu Long và Thành Long trong Enter the Dragon / Long tranh hổ đấu (1973); Chân Tử Đan trong Diệp Vấn 2 (2010), ba phim võ thuật Hồng Kông với sự tham gia của những ngôi sao lớn nhất thể loại này
|
Phim võ thuật là gì?Phim võ thuật Hồng Kông thường rơi
vào hai thể loại lớn, kiếm hiệp và kung fu. Phim kiếm hiệp có chiến đấu
với vũ khí, thường là đao kiếm, còn phim kung fu thường có giao chiến
tay không. Hai thể loại phim khá khác biệt, dù các phim kung fu đôi khi
có cảnh chiến đấu với gậy (còn gọi là côn), một vũ khí được các sư Thiếu
Lâm ưa chuộng, và kẻ phản diện thường dùng vũ khí.
Từ
wuxia
/ võ hiệp dịch nôm là “người hùng võ thuật” và có nguồn gốc từ truyền
thống văn học võ hiệp phong phú từ Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc Đại
lục.
Các nam và nữ kiếm khách hành hiệp đóng vai trò chính
trong thể loại này sống trong thế giới võ thuật nửa thần thoại gọi là
giang hồ. Các “nam hiệp” và “nữ hiệp” có nhiều mặt tính cách khác nhau,
dù nói chung họ là người nghĩa hiệp, và thường đứng về bên thiện.
Lý Liên Kiệt trong Phương Thế Ngọc (1993), một ví dụ của phim kung fu
|
Kung fu là cụm từ chung miêu tả các môn võ Trung Quốc. Kung fu được chia
thành hai phái truyền thống chính, Bắc và Nam phái, và hai cách tiếp
cận khái niệm, nội công và ngoại công.
Trong hai phái này, có
nhiều môn phái khác nhau, như Hồng Gia quyền (một hệ phái nổi tiếng của
Nam phái) và Vịnh Xuân (môn võ Lý Tiểu Long học đầu tiên). Võ thuật
trong các phim kung fu cũng chịu ảnh hưởng lớn từ nghệ thuật nhào lộn
của Kinh kịch, bản thân là một biến thể phong cách hóa nặng từ võ phái
miền Bắc.
Nhờ thành công hiện tượng của Lý Tiểu Long đầu thập
niên 70, phim kung fu được thế giới biết đến nhiều hơn phim kiếm hiệp.
Đúng hơn, những người xem phim nước ngoài bình thường không biết đến sự
hiện diện của truyền thống phim kiếm hiệp lâu dài và phong phú của Hồng
Kông.
Siêu sao Lý Tiểu Long (phải) từng là môn đệ của bậc thầy võ Vịnh Xuân Diệp Vấn (trái)
|
Trước đầu thập niên 1970, phần lớn phim võ thuật là phim kiếm hiệp. (Một ngoại lệ nổi bật là loạt phim
Hoàng Phi Hồng
lâu đời phát hành từ 1949 tới 1970.) Sự nổi tiếng của phim kiếm hiệp ở
Hồng Kông giảm đi vào đầu những năm 70 và, được khích lệ từ thành công
của Lý Tiểu Long, các nhà sản xuất xoay sang làm phim kung fu. Phim kung
fu trở nên nổi tiếng toàn cầu vào 1973 với thành công của các phim của
Lý Tiểu Long, bao gồm
Long tranh hổ đấu.
Phim kiếm hiệp
có một đợt tái xuất vào những năm 1990, khi các nhà làm phim như Từ Khắc
tái thể hiện dòng phim này qua những phim như
Swordsman II (
Tiếu ngạo giang hồ: Đông Phương Bất Bại). Về mặt khái niệm, những phim 1990 dựa trên dòng “kỳ ảo” của phim
truyện chưởng ngày xưa, bắt nguồn từ Thượng Hải vào những năm 1920.
Những
phim này cho các nam và nữ hiệp những năng lực cao cường gần như mang
tính phép thuật, và các phim dựa vào hiệu ứng cũng nhiều không kém kỹ
thuật đấu kiếm. (Dù các nam nữ hiệp truyền thống hơn có thể thực hiện
những động tác nguy hiểm, gồm nhào lộn, phi thân, năng lực của họ vẫn
chưa tới mức siêu nhiên.)
Lâm Thanh Hà trong phim Tiếu ngạo giang hồ: Đông Phương Bất Bại (1992)
|
Thập niên 90 cũng chứng kiến mối quan tâm dành cho phim kung fu lên trở lại, xuất phát từ thành công của những phim
Once Upon a Time in China (
Hoàng Phi Hồng)
của Từ Khắc, có Lý Liên Kiệt trong vai Hoàng Phi Hồng. Kiếm hiệp di
chuyển vào các phim hành động sử thi lớn vào đầu những năm 2000, như
Hero (
Anh hùng) của Trương Nghệ Mưu, trong khi kung fu nổi tiếng trở lại với loạt phim
Diệp Vấn, ra mắt vào năm 2008 và kết lại năm ngoái với
Ip Man 4: The Finale.
Những ngôi sao lớn của dòng phim nàyNhững ngôi sao lớn của phim kung fu là những cái tên cửa miệng — Lý Tiểu Long, Thành Long và Lý Liên Kiệt.
Lý
Tiểu Long, đôi chút như một triết gia của giới võ thuật, là một hiện
tượng ở đầu những năm 1970. Từng là một người ngoài ở Mỹ, nam diễn viên,
qua đời vào năm 1973, qua năm tháng đã tăng danh tiếng kể cả ở những
nơi không ngờ tới trên thế giới. Lý Tiểu Long vẫn là một võ sư mà nhiều
người khao khát trở thành.
Thành Long (phải) trong phim Túy quyền II (1994)
|
Thành Long, khởi nghiệp là một người đóng thế, nổi danh vào những năm
1980. Các nỗ lực quảng bá anh như một Lý Tiểu Long mới thất bại, và anh
có danh tiếng khi phát triển hình ảnh nghịch ngợm của riêng mình, đi kèm
võ thuật nhào lộn và những pha nguy hiểm.
Lý Liên Kiệt, sinh ra ở
miền bắc Trung Quốc, có thành công nở rộ vào những năm 1980, nhưng tạo
nên tên tuổi vào những năm 1990 qua phim của đạo diễn Hồng Kông Từ Khắc.
Lý Liên Kiệt sau trở thành một ngôi sao thành công tầm quốc tế.
Hồng
Kim Bảo đã là một thế lực hùng mạnh ở ngành phim Hồng Kông suốt nửa thế
kỷ, trong vai trò diễn viên, đạo diễn, chỉ đạo võ thuật và người đóng
thế. Hồng Kim Bảo là một người to lớn, và một phần của cuộc vui là trông
ông thực hiện những màn nhào lộn tưởng như phá vỡ những định luật về
trọng lực.
Hồng Kim Bảo trong phim Eastern Condors (Phi ưng phương Đông) (1987), cũng do ông đạo diễn
|
Cùng với Hồng Kim Bảo, diễn viên kỳ cựu Chân Tử Đan là ngôi sao võ thuật lớn nhất ngày nay, và thành công của các phim
Diệp Vấn đẩy anh tới gần vị thế siêu sao.
Những
cái tên lớn từ phim kung fu những năm 1970 gồm La Liệt và Lưu Gia Huy,
trong số rất nhiều cái tên khác. Xưa hơn trong quá khứ, anh hùng võ hiệp
được Quan Đức Hưng định nghĩa, qua vai Hoàng Phi Hồng trong hơn 80 phim
từ 1949 tới 1970. Quan Đức Hưng thường sử dụng môn võ Nam phái nổi
tiếng Hồng Gia quyền.
Phim kiếm hiệp cũng có ngôi sao riêng, nổi
tiếng nhất là Vương Vũ lạnh lùng và phong cách, ngôi sao của những phim
kinh điển thời đầu của Trương Triệt. Vương Vũ sau chuyển sang đóng phim
kung fu và đạo diễn. Khương Đại Vệ, được chọn thay thế Vương Vũ ở hãng
phim Thiệu Thị Huynh Đệ sau khi ông rời đi, cũng trở thành một ngôi sao
lớn dưới sự chỉ đạo của Trương Triệt, cũng như Địch Long. Phú Thanh hào
hoa, một học trò nữa của Trương Triệt, cũng nổi tiếng.
(Từ trái qua) Các ngôi sao phim hành động Khương Đại Vệ, Địch Long
và Trần Quan Thái nghỉ ngơi ở hãng phim Thiệu Thị Huynh Đệ năm 1972
|
Phim kiếm hiệp cũng có nhiều ngôi sao nữ. Những nam 1950 và 1960, trước
sự xuất hiện của làn sóng phim kiếm hiệp mới vào 1966-1967, điện ảnh
Hồng Kông nhắm tới khán giả nữ — các phim tình cảm sướt mướt là những
phim ăn khách lớn — và phim chưởng luôn có những nhân vật nữ chính, dù
họ không được thể hiện như những nhân vật nữ độc lập.
Làn sóng
phim võ thuật mới của Hồ Kim Thuyên tiếp tục xu hướng này, đưa hai diễn
viên Đài Loan lên thành sao, Từ Phong và Trịnh Phối Phối. Dù cả hai
không luyện tập võ thuật — Trịnh Phối Phối xuất thân là diễn viên múa —
cả hai diễn như chuyên gia trong các phim như
Come Drink with Me (
Đại túy hiệp) (Trịnh Phối Phối) và
A Touch of Zen (Từ Phong). Phim kiếm hiệp đông đảo những nữ hiệp ấn tượng.
Những
năm 1990, Lâm Thanh Hà, một diễn viên chính kịch từ Đài Loan, nổi lên
trong vai nhân vật ái nam ái nữ Đông Phương Bất Bại trong
Swordsman II
của Từ Khắc và Trình Tiểu Đông. Cùng với Lý Liên Kiệt, Lâm Thanh Hà trở
thành ngôi sao lớn nhất của phong cách phim võ thuật mới. Lâm Thanh Hà
mang nét hào hoa và sức mạnh chính kịch khiến các vai diễn của cô vượt
lên khiếm khuyết trong kỹ thuật đánh võ.
(Từ trái qua) Hoàng Gia Đạt, Mao Phục Tích và Hồng Kim Bảo trong phim Hapkido / Hiệp khí đạo (1972)
|
Ngược lại, “Lý Tiểu Long nữ” Mao Phục Tích, ngôi sao kung fu lớn nhất
những năm 1970 — và có lẽ mọi thời đại — có rèn luyện võ thuật. Mao Phục
Tích biết hiệp khí đạo, một môn võ của Triều Tiên, và có thể thực sự
chiến đấu. Mao Phục Tích có được danh tiếng ở Mỹ trong thời kỳ bùng nổ
kung fu đầu những năm 1970, và đứng thứ hai về sự nổi tiếng ở nước ngoài
chỉ sau Lý Tiểu Long.
Từ giữa những năm 1980, Dương Tử Quỳnh
(trong những phim đầu để tên Michelle Kwan) đã là một ngôi sao hành động
nữ nổi tiếng, dù dành phần nhiều thời gian đóng phim ở nước ngoài.
Dương Tử Quỳnh đã xuất hiện trong những phim như Fong Yai Suk (
Phương Thế Ngọc) và
The Tai Chi Master (
Thái cực Trương Tam Phong), cả hai phim bên cạnh Lý Liên Kiệt, và
Crouching Tiger, Hidden Dragon (
Ngọa hổ tàng long)
của Lý An. Dương Tử Quỳnh, cũng là một cựu diễn viên múa, biểu diễn mọi
cảnh hành động và học các môn võ cần cho mỗi phim võ thuật cô tham gia.
Là một diễn viên lâu năm, gần đây cô đóng vai Chỉ huy Philippa Georgiou
trong phim truyền hình
Star Trek: Discovery.
Từng có
nhiều võ đường và bậc thầy võ thuật ở Hồng Kông, và điều này cung cấp
một lượng tài năng đều đặn cho các nhà làm phim. Ví dụ, đạo diễn/biên
đạo võ thuật Lưu Gia Lương là con của đại sư Hồng Gia quyền Lưu Trạm, đã
dạy Lưu Gia Huy, sau xuất hiện trong
36th Chamber of Shaolin (
Thiếu Lâm tam thập lục phòng) của Lưu Gia Lương. Với sự suy giảm của những võ đường này, nguồn nam nữ diễn viên võ thuật tiềm năng đã giảm đi.
Những đạo diễn phim võ thuật nổi tiếng nhất?Hai người khổng lồ của dòng kiếm hiệp là Trương Triệt và Hồ Kim Thuyên.
La Liệt và Trịnh Phối Phối trong cảnh phim Golden Swallow (Kim yến tử) (1968), do Trương Triệt đạo diễn
|
Trương Triệt danh tiếng, làm việc ở Thiệu Thị Huynh Đệ, tái định nghĩa
dòng phim vào giữa những năm 1960 theo nhiều cách. Ông đã khiến cảnh
hành động thực tế hơn và sử dụng các kỹ thuật quay phim và biên tập hiện
đại để khiến các phân đoạn đánh nhau mang tính điện ảnh hơn. Ông mang
đến máu me và bạo lực cho thể loại, và phát triển ý tưởng người hùng nam
tính nổi loạn đồng điệu với thời kỳ này.
Khi dòng phim kiếm hiệp
lặng đi, Trương Triệt có bước chuyển thành công sang đạo diễn các phim
kung fu, dù chất lượng các thành phẩm của ông trở nên rời rạc.
Hồ
Kim Thuyên cũng quan trọng không kém. Hồ Kim Thuyên dựa trên văn học và
Kinh kịch để tạo ra những phim đẹp mắt, trí tuệ và mang tính lịch sử
văn học đem lại những màn võ thuật duyên dáng và mạnh bạo. Ông cũng có
cách sử dụng kỹ thuật biên tập tân tiến.
A Touch of Zen của Hồ Kim Thuyên vượt ra ngoài dòng phim để trở thành một tuyệt tác của điện ảnh thế giới.
Bạch Tĩnh (trái) và Từ Phong trong A Touch of Zen (1971)
|
Một khía cạnh quan trọng của phim võ thuật là đa phần đạo diễn không
phải chuyên gia võ thuật, và kết quả là giao các cảnh võ thuật cho những
biên đạo võ thuật chuyên ngành. Nhìn chung, các biên đạo có toàn quyền
chỉ đạo các cảnh hành động, biên đạo thân thủ của diễn viên, và quyết
định chuyển động của máy quay.
Cấp độ tự chủ này không có ở
Hollywood. Ví dụ, Trương Triệt đã làm việc với biên đạo Lưu Gia Lương
trong phần đầu sự nghiệp của ông.
Một số biên đạo võ thuật sau
trở thành đạo diễn. Lưu Gia Lương trở thành một thế lực hùng mạnh trong
phim kung fu ở vai trò đạo diễn, với nhiệm vụ trưng ra sự thuần khiết
của võ công Nam phái trong phim của ông.
Một biên đạo võ thuật
nổi danh khác cũng đạo diễn phim là Viên Hòa Bình, được các đồng nghiệp
gọi là “đạo diễn võ thuật vĩ đại nhất thế gian”. Viên Hòa Bình cũng đã
chỉ đạo các cảnh hành động trong
The Matrix.
Đạo diễn Viên Hòa Bình (trái) trên phim trường bộ phim Master Z: The Ip Man Legacy năm 2018
|
Trình Tiểu Đông, đã làm việc với Từ Khắc trong một vài phim ăn khách những năm 1990 — như
A Chinese Ghost Story (
Thiến nữ u hồn) — trong vai trò đạo diễn, cũng là một biên đạo võ thuật chuyên nghiệp.
Lý
Tiểu Long không có nhiều may mắn với các đạo diễn, bất hòa với La Duy
kỳ cựu, đã đạo diễn anh trong hai phim võ thuật, và tự đạo diễn phần lớn
các phân đoạn võ thuật. Lý Tiểu Long cũng tự đạo diễn anh trong
Way of the Dragon (
Mãnh long quá giang).
Tương tự, Thành Long cũng thường tự đạo diễn, và anh luôn thiết kế các
phân đoạn đánh nhau trong phim, dù anh có là đạo diễn của phim hay
không.
Nên xem những phim võ thuật Hồng Kông nào?Bạn có bao nhiêu thời gian? Thế giới điện ảnh võ thuật là bao la bất tận. Với phim kiếm hiệp,
One-Armed Swordsman (
Độc thủ đại hiệp) và
Golden Swallow của Trương Triệt là những khởi đầu hay, cùng với
Come Drink with Me và
A Touch of Zen của Hồ Kim Thuyên.
Vương Vũ trong Độc thủ đại hiệp (1967)
|
Với phim kung fu, các phim của Lý Tiểu Long dĩ nhiên là bắt buộc phải xem —
Fist of Fury (
Tinh võ môn) có lẽ là phim nhập môn hay nhất — cũng như
Project A và
Police Story của Thành Long. Những phim hay nhất từ thời kỳ kung fu của Trương Triệt gồm có
Heroes Two / Phương Thế Ngọc và Hồng Hy Quan và
Men from the Monastery / Phích lịch thập kiệt.
Executioners from Shaolin / Hồng Hy Quan của Lưu Gia Lương là một tác phẩm vượt trội với chất lượng chính kịch vững chãi bên cạnh hành động, trong khi
36th Chamber of Shaolin
của ông là lời mào đầu thiết yếu cho chân lý đằng sau việc luyện tập võ
công Nam phái, cũng là một sách yếu lược đầy đủ thông tin về các kỹ
thuật của nó.
The Eight-Diagram Pole Fighter / Ngũ lang bát quái côn của Lưu Gia Lương có những cảnh đấu côn thực sự tuyệt vời.
Các
phim Thiếu Lâm ban đầu của Lý Liên Kiệt phô diễn những màn wushu ấn
tượng — là phiên bản không giao chiến của võ thuật được chính quyền
Trung Quốc cho phép — còn diễn xuất của anh trong hai phim
Once Upon a Time in China là điểm nhấn trong các lần hợp tác sau này của anh với đạo diễn Từ Khắc.
Lý Liên Kiệt trong Once Upon a Time in China (1991)
|
Về hài và kung fu, Hồng Kim Bảo rất thú vị trong
Pedicab Driver / Quần long hí phụng, và
Drunken Master của Thành Long là sự tổng hòa hay giữa tính cách tinh quái trên màn ảnh và sức mạnh võ thuật của anh.
Swordsman III – The East is Red / Đông Phương Bất Bại: Phong Vân tái khởi là một ví dụ cực kỳ dễ tận hưởng của dòng phim kung fu kỳ ảo của những năm 1990.
Dịch: © Phương Hà @Quaivatdienanh.com
Nguồn: South China Morning Post