Làm sao mà ngành công nghiệp điện ảnh lại đi đến mức này? Tại sao những
bộ phim có kinh phí trung bình, dành cho người lớn lại biến mất khỏi rạp
chiếu trong khi phim siêu anh hùng và phim chuỗi thống trị? Ben Fritz
trả lời những câu hỏi đó, và nhiều câu hỏi khác nữa, trong cuốn sách mới
gây nghiện của ông The Big Picture: The Fight for the Future of Movies (tạm dịch: Bức tranh toàn cảnh: Chiến đấu vì tương lai của điện ảnh).
Chúng ta sẽ đào sâu vào cuốn sách đầy tính giải trí của Ben Fritz về
Hollywood trong thế kỷ 21, và nhấn mạnh các phần về Disney, Marvel
Studios, Netflix, Sony và nhiều phần khác.
Trong một phong cách
có phần ngồi lê đôi mách nhưng không hề khai thác, Fritz lược qua dữ
liệu của thập niên vừa rồi, tách bạch những trò bịp bợm hậu trường và
những email thu thập được từ vụ ‘hack’ Sony khét tiếng. Fritz xem xét sự
sụp đổ của Sony với tư cách là một đấu thủ phòng vé lớn; sự lên ngôi
của hãng phim Marvel; cái chết của phim kinh phí trung bình; sự tăng
trưởng các chương trình giải trí mới nguyên của Netflix và nhiều, nhiều
điều khác nữa. Nếu có một yếu tố trở đi trở lại trong cuốn sách, thì đó
là Sony, và chủ tịch cũ Amy Pascal. Người ta có cảm giác Pascal là một
trong những nhà điều hành Hollywood hiếm hoi thực sự yêu điện ảnh dưới
dạng nghệ thuật, chứ không chỉ là những cỗ máy kiếm tiền. Cách mà Fritz
nói, có lẽ chính sự tận tụy bất tận dành cho phim tâm lý nhỏ, nhắm vào
khán giả người lớn rốt cuộc lại dẫn đến sự sụp đổ cho Sony của Pascal.
Nếu bạn là một ‘fan’ điện ảnh,
The Big Picture
là cuốn sách phải đọc. Đây là một cái nhìn chứa đựng thông tin, có tính
giải trí, và thường làm người ta phát điên về cách mà ngành công nghiệp
điện ảnh đi đến chỗ ngày hôm nay – dù tốt hay xấu. Bài viết dưới đây
nêu bật một số liên hệ quan trọng từ cuốn sách, nhưng đó chỉ mới là bề
mặt. Để hiểu toàn bộ câu chuyện, hãy mua quyển sách của Fritz. Đảm bảo
bạn sẽ phải đọc một mạch, không thể nào đặt xuống.
Tài liệu đánh cắpCái gì trước nói trước: Fritz làm rõ
ngay rằng rất nhiều nghiên cứu ông thu thập được cho cuốn sách lấy từ vụ
‘hack’, tức đánh cắp, email của Sony. Năm 2014, một nhóm tin tặc đã cho
rò rỉ tài liệu trực tuyến của Sony, bao gồm email cá nhân, thông tin về
lương và phim chưa phát hành lúc đó. Các tin tặc đã bị cáo buộc là từ
Bắc Triều Tiên, thực hiện hành động phản đối của họ trước việc phát hành
bộ phim hài đen tối đề tài về Bắc Triều Tiên
The Interview (mặc dù có một số người cho rằng việc tấn công mạng này là từ bên trong nội bộ và sử dụng Bắc Triều Tiên để đổ tội).
Có
một câu hỏi đạo đức ở đây, và có thể hiểu thậm chí sẽ có người không
muốn tìm hiểu cuốn sách vì những lý do này. Về phần mình, Fritz công
khai tất cả những điều đó. “Cuốn sách một phần dựa trên tài liệu đánh
cắp. Tôi sẽ không quanh co gì về chuyện ấy,” tác giả cho biết trong phần
giới thiệu. “Tuy nhiên, một sự thật không thể phủ nhận rằng nhiều nhà
báo lớn đã sử dụng tài liệu đánh cắp làm nguồn.” Lấy ví dụ cho điều này,
Fritz trích dẫn Hồ sơ Lầu Năm Góc (mới được kể lại theo trình tự thời
gian trong
The Post của Steven Spielberg).
Sự sụp đổ của SonyVì Fritz sử dụng vụ ‘hack’ Sony làm bàn
đạp, Sony chiếm phần lớn trong phần đầu cuốn sách. Hầu hết tập trung
vào những nỗ lực (thất bại) của Amy Pascal để cạnh tranh với Disney và
Marvel.
Như Fritz nói chi tiết, trong khi các hãng phim khác đã
tham gia vào cuộc chơi phim chuỗi, Sony chủ yếu dựa vào ba chuỗi phim
lớn: James Bond,
Men In Black và
Spider-Man. Thật
không may cho Sony, cả ba đều có “gánh nặng”. Sony không thực sự sở hữu
chuỗi phim Bond – MGM mới sở hữu, vì vậy mặc dù phim Bond
Skyfall làm ra 1,1 tỉ đôla toàn cầu, Sony chỉ kiếm được 57 triệu đôla từ đó.
Men In Black 3,
thành công lớn thứ ba của Sony năm 2012, thu về 624 triệu đôla toàn
cầu. Nhưng nhiêu đó không đủ lời, vì Sony phải trả cho ngôi sao Will
Smith và nhà điều hành sản xuất Steven Spielberg 90 triệu đôla tính trên
doanh thu từ phim.
Đối với Spidey,
The Amazing Spider-Man
khởi động lại của Sony kiếm được “khoảng 110 triệu đôla trên 758 triệu
đôla doanh thu vé toàn cầu”, tức là “chưa đến một nửa lợi nhuận của
Spider-Man 3 năm 2007.”
Dark Tower năm 2017 đã thất bại trong nỗ lực mở phim chuỗi mới của Sony
|
Trong nỗ lực tuyệt vọng tung ra những phim chuỗi mới, Sony đã mua quyền làm phim như Barbie,
Fifth Wave và
Dark Tower của Stephen King. Họ còn nghĩ đến việc kết hợp hai chuỗi phim
Men in Black và
21 Jump Street (một ý tưởng dường như đã chết ngay tức khắc). Trên hết, họ đã cố gắng để tung ra một phim
Cleopatra làm lại, một
Ghostbusters thứ ba,
Bad Boys 4, một
He-Man mới và một phim dựa trên trò chơi điện tử
Uncharted. Gần như không có phim nào trong số đó trở thành hiện thực.
Sự lên ngôi của phim siêu anh hùng và Marvel StudiosKế hoạch khởi động lại
Spider-Man của Sony đã không như dự tính.
The Amazing Spider-Man không làm tốt như hãng đã hy vọng, và
The Amazing Spider-Man 2 còn tệ hơn. Một thông tin nhỏ thú vị Fritz tiết lộ trong khi bàn về loạt phim
Spider-Man: sau khi
Amazing Spider-Man 2 không đạt kỳ vọng, Amy Pascal thực sự đã liên hệ với cựu đạo diễn
Spider-Man,
Sam Raimi và hỏi ông có muốn trở lại để hồi sinh chuỗi phim không. Như
chúng ta đều đã biết, Raimi không trở lại, và một thỏa thuận giữa Marvel
Studios và Sony cho phép Spidey tái sinh vào MCU (mặc dù hình như
Pascal đã ném bánh sandwich vào chủ tịch Marvel Studios Kevin Feige khi
lần đầu ông đề xuất ý này).
Feige và Marvel “không thích” những gì Sony đã làm với
Spider-Man. “[Feige] nghĩ rằng khởi động lại với
The Amazing Spider-Man, thay vì đi tiếp từ những sai lầm của Raimie trong
Spider-Man 3, là một sai lầm,” Fritz viết, và dẫn lời Feige nói:
“Một triệu năm nữa tôi cũng không bao giờ ủng hộ việc khởi động lại...
Iron Man;
Đối với tôi đó là James Bond và chúng ta có thể tiếp tục kể những câu
chuyện mới trong nhiều thập kỷ thậm chí với các diễn viên khác nhau.”
Mối
quan hệ không thân thiện giữa Sony và Marvel được chú ý trong phần này.
Cụ thể, sai lầm ngớ ngẩn lớn của Sony khiến họ phải trả giá bằng toàn
bộ MCU. Trở lại khi lần đầu tiên Sony đến Marvel để mua quyền làm phim
Người Nhện, giám đốc mới của Marvel, Ike Perlmutter, đã đề nghị một thỏa
thuận thậm chí còn ngọt hơn. Sony có thể có quyền đối với hầu hết các
nhân vật Marvel, bao gồm Iron Man, Thor, Ant-Man, và Black Panther, với
giá 25 triệu đôla quá ‘ngon’. Câu trả lời của Sony? “Cảm ơn, nhưng xin
kiếu.”
Fritz cũng lần theo sự nổi lên của Marvel Studios từ một văn phòng nằm ở
tầng trên một đại lý xe Mercedes ở Beverly Hills thành một đấu thủ lớn ở
Hollywood. Tác giả cũng tiết lộ lý do đằng sau việc tung ra MCU với
Iron Man: đồ chơi! Fritz viết:
“Để quyết định xem làm phim nào
đầu tiên, Marvel triệu tập các nhóm tiêu điểm. Nhưng họ không được triệu
tập để hỏi xem mọi người ở các bộ phận muốn thấy tuyến truyện và nhân
vật nào trên màn ảnh nhất. Thay vào đó, Marvel đã tập hợp các nhóm trẻ
em, cho bọn trẻ xem những hình ảnh về các siêu anh hùng, và mô tả khả
năng cùng vũ khí của họ. Sau đó, họ hỏi bọn trẻ thích chơi đồ chơi về
nhân vật nào nhất. Câu trả lời áp đảo, trước sự ngạc nhiên của nhiều
người ở Marvel, là Iron Man.”
Tiếp thêm, Fritz tiết lộ những gì
có thể bạn đã nghi ngờ từ lâu về Marvel: họ muốn tìm kiếm những đạo diễn
mà họ biết họ có thể kiểm soát được. Như tác giả cuốn sách viết, đây là
một trong những lý do Marvel đã thuê Jon Favreau chỉ đạo
Iron Man:
“Favreau
không có sức mạnh đặc biệt ở Hollywood, nghĩa là nếu có phát sinh xung đột về
chi phí hay lựa chọn sáng tạo, và nếu họ cần ép anh ta, họ có
thể.”
“Chúng tôi sẽ không bao giờ có bản phim của đạo diễn,”
David Maisel, lúc đó là chủ tịch và giám đốc tác nghiệp của Marvel
Studios, được dẫn lời. “Phim của chúng tôi không phải là thái ấp của đạo
diễn.”
Jon Favreau (phải) chỉ đạo Robert Downey trong vai Tony Stark trên trường quay Iron Man 3
|
Maisel là một trong những nhân vật chủ chốt nhìn ra tiềm năng của vũ trụ
điện ảnh. “Một trong những công việc kinh doanh điện ảnh ngon ăn nhất là
phim phần tiếp theo vì bạn có thể dự đoán tốt hơn doanh thu và chi phí,”
ông nói. “Tôi biết bằng cách rải các nhân vật của chúng tôi ra, tôi sẽ
làm cho mọi bộ phim trở thành như một phần tiếp theo.”
Sự kết thúc của minh tinh điện ảnhCó
một thời minh tinh điện ảnh thống trị tối cao. Khán giả không kéo nhau
tới rạp vì chủ đề của một bộ phim – họ đến đó để gặp ngôi sao. Họ đến
gặp Tom Cruise, hoặc Sandra Bullock, hoặc Will Smith. Ngày nay, không
thế nữa. Sức mạnh ngôi sao đã phai tàn.
“Chuyện gì đã xảy ra?”
Fritz viết. “Khán giả đã thay lòng đổi dạ. Không phải chuyển sang thích
các ngôi sao khác, mà là các thương hiệu. Ngày nay, không ai có kỷ lục
phòng vé mà [Tom] Cruise từng làm được, và thật khó tưởng tượng sẽ có ai
lại làm được. Nhưng Marvel Studios đã làm được.
Harry Potter đã làm được.
Fast & Furious cũng vậy.”
Will Smith trong phim After Earth năm 2013
|
Như tác giả viết, “Người xem phim tìm kiếm sự hài lòng nhất quán, có thể
đoán trước mà họ từng có được từ những ngôi sao yêu thích bây giờ
chuyển sang các vũ trụ điện ảnh.”
Từ đây,
The Big Picture
tiếp tục bàn về việc hai ngôi sao lớn nhất của Sony là Will Smith và
Adam Sandler bắt đầu mất đi sức hút. Smith và Sandler từng thống trị
phòng vé, nhưng thế kỷ 21 đã đặt dấu chấm hết với họ.
Một trong những ví dụ điển hình của điều này là bộ phim sử thi khoa học giả tưởng
After Earth của Smith, một thất bại phòng vé cho Sony. Smith đã cực kỳ kiêu ngạo về bộ phim. Anh không chỉ muốn biến
After Earth
thành phim – anh muốn “một phim truyền hình người đóng, một loạt phim
hoạt hình, phim trực tuyến và phim xem trên thiết bị di động, trò chơi
điện tử, sản phẩm tiêu dùng, công viên chủ đề, phim tài liệu, truyện
tranh, một ‘chương trình giáo dục trong trường học hợp tác với NASA’, và
‘nước hoa, sản phẩm vệ sinh, v.v…’”
Khỏi phải nói, không có chuyện nào trong số đó xảy ra.
Sony chọn nhà vô địch bom tấn mới toanh Chris Pratt đảm đương Passengers, nhưng phim vẫn xịt
|
Một chuyện kiêu căng cuối cùng trong chương liên quan đến Smith: cựu vương phòng vé này rất muốn đóng phim
Passengers,
nhưng Sony lại thích nhà vô địch bom tấn mới toanh Chris Pratt. Tuy nhiên,
có lẽ Smith đã được hả hê – anh sang Netflix với khoản lương hậu hĩ để
đóng
Bright, còn
Passengers xịt.
Khúc khải hoàn NetflixGiờ
đây dường như không thể dừng được Netflix. Hạ tầng trực tuyến này, khởi
đầu chủ yếu như một dịch vụ cho-thuê-phim-qua-thư, đã đi từ mượn phim
điện ảnh và truyền hình của người khác đến tự chế tác. Netflix có kế
hoạch tạo ra 700 phim điện ảnh và truyền hình mới nguyên cho dịch vụ của
mình chỉ riêng trong năm 2018. Mặc dù những người theo chủ nghĩa thuần
túy sẽ luôn muốn trải nghiệm chiếu rạp, Netflix đã khắc một dấu sâu
vào tiến trình điện ảnh.
Như được viết trong
The Big Picture,
vì Hollywood từ chối nhượng quyền nhiều tựa phim cho Netflix, nên
Netflix quyết định tự mình tạo ra nội dung giải trí. Tự làm nội dung
thay vì dựa vào người khác thì không có gì mới, nhưng Netflix đã tiếp
cận vấn đề này theo một cách khác. Tác giả của
The Big Picture
viết: “Thay vì dựa vào các nhóm trọng điểm, so sánh chủ quan với nội
dung tương tự, và trực giác của các nhà điều hành, Netflix sử dụng dữ
liệu.”
Ví dụ, với thành công mới nguyên đình đám ban đầu
House of Cards, “Netflix có thể đã dễ dàng nhận ra các phim của Kevin Spacey lâu nay đã làm ăn tốt trên dịch vụ này, và nhiều thuê bao đã xem
The Social Network của đạo diễn David Fincher... từ đầu đến cuối. Cuối cùng, công ty biết rằng bộ phim chính trị
House of Cards cũng bất ngờ nổi tiếng với các thuê bao người Mỹ.”
Rốt cuộc, Netflix biết
House of Cards của họ thành công “không đo bằng số lượng người xem”, mà “bằng việc mọi người đều đang nói về nó.”
Tại sao các hãng phim thôi làm phim tâm lý kinh phí trung bìnhCó
một thời Hollywood nghĩ rằng làm phim kinh phí trung bình dành cho
người lớn là vụ làm ăn tốt. Bây giờ, những bộ phim như vậy được xem là
rủi ro. Nếu bạn cần một ví dụ gần đây về điều này, thì chẳng đâu xa
chính là
Annihilation của Paramount, một bộ phim dành cho người
trưởng thành đã được giới phê bình khen ngợi nhưng thành tích phòng vé
kém. Khán giả có thể nói họ muốn có nhiều phim dành cho người lớn hơn,
nhưng khi phim dành cho người trưởng thành xuất hiện thì chẳng ai đi xem.
Annihilation là thất bại phòng vé mới nhất của phim kinh phí trung bình dành cho người trưởng thành
|
Phim tiểu sử
Steve Jobs được chú ý nhiều ở phần này. Amy Pascal
đã chiến đấu nhiều năm để bộ phim được làm, tự tin rằng đề tài và dàn
diễn viên và đạo diễn (ban đầu là Christian Bale, Scarlett Johansson và
David Fincher) đủ để chinh phục được khán giả, nhà phê bình và giải
thưởng. Thế nhưng cuối cùng, khi bộ phim ra rạp – với Michael
Fassbender, Kate Winslet và Danny Boyle thay chỗ của Bale, Johansson và
Fincher –
Steve Jobs đã xịt.
Trong khi đó, bộ phim siêu
anh hùng mới nhất, bất chấp những bài phê bình có dễ sợ đến thế nào, vẫn
luôn thu hút ai đó. Vậy nếu bạn muốn biết tại sao phim tâm lý kinh phí
trung bình biến mất, câu trả lời rất đơn giản: khán giả tránh những phim
đó, khiến Hollywood càng có cảm hứng để loại bỏ chúng.
The Big Picture viết:
“Sự
thay đổi lớn nhất trong những năm qua chính là việc những bộ phim kinh
phí trung bình giờ đây làm ăn tệ hại đến thế nào khi chúng không thành
công. Trong quá khứ, nếu một hãng lớn đặt nguồn lực đằng sau một bộ
phim, thì hầu như chắc chắn thu tổng cộng ít nhất 15 triệu USD. Còn bây
giờ, với các chuỗi phim lớn hút hết dưỡng khí ở cụm rạp chiếu và với hầu
hết những bàn luận văn hóa về phim hay đều tập trung vào phim truyền
hình, một phim tâm lý mới có thể đến rồi đi chẳng ai biết, như thể chưa
từng có mặt trên đời.”
Nhà Chuột“Disney tiếp cận các bộ phim giống như Apple
tiếp cận các sản phẩm tiêu dùng,” Ben Fritz viết, và đó có lẽ là kết
luận ngắn gọn nhất có thể về sự thành công của Disney. Chương về Disney
trong
Big Picture kể lại theo trình tự thời gian việc hãng phim
Hollywood kinh điển này vọt lên hàng đầu đi vào thế kỷ 21 và bám chắc
lấy các thương hiệu như thế nào.
“Disney không kinh doanh điện
ảnh,” Fritz viết. “Phim ảnh nằm trong việc kinh doanh thương hiệu của
Disney. Phim ảnh là để phục vụ những thương hiệu đó. Không có chiều
ngược lại.”
Cướp biển Caribê và
Alice in Wonderland là hai phim được
The Big Picture trích dẫn là làm thay đổi mọi thứ cho Disney. Disney không chắc bộ phim
Cướp biển đầu
tiên của Gore Verbinski lại là một thành công đình đám, và khi họ nhìn
thấy các nhật báo đều đưa hình Jackie Sparrow của Johnny Depp, thậm chí
họ cảm thấy căng thẳng thêm. Nhưng bộ phim là một thành công vang dội.
Alice in Wonderland cũng vậy, nhận được đánh giá nghèo nàn nhưng hốt khẳm vào tài khoản ngân hàng.
Jackie Sparrow của Johnny Depp
|
Những kết quả đó khuyến khích Disney làm cả hai phim người đóng dựa trên các thương hiệu được nhận biết như
Cướp biển, và cũng lội vào bể hoạt hình của họ để tái tạo lại những bộ phim hoạt hình thành phim người đóng như
Alice.
Theo
The Big Picture,
bí quyết thành công của Disney là “cắt giảm hai phần ba số lượng phim
được làm mỗi năm” và “bỏ qua bất kỳ loại phim nào có chi phí ít hơn 100
triệu đôla” hoặc “dựa trên ý tưởng nguyên gốc, hay hấp dẫn bất kỳ nhóm
khán giả nào nhỏ hơn tất cả những người xem phim toàn cầu.” Tác giả cuốn
sách kết luận thẳng thừng:
“Disney không làm phim tâm lý cho
người lớn. Không làm phim ly kỳ. Không làm phim hài lãng mạn. Không làm
phim hài tục. Không làm phim kinh dị. Không làm phim tạo ngôi sao. Không
chuyển thể tiểu thuyết. Không mua kịch bản gốc. Không mua bất cứ gì tại
các liên hoan phim. Không làm bất cứ phim chính trị nào hoặc phim gây
tranh cãi. Không làm bất cứ gì có nhãn phân loại R. Không cho các đạo
diễn từng đoạt giải thưởng... rộng quyền để theo đuổi tầm nhìn của họ.”
Không nghi ngờ gì đây là điều ảm đạm và gây thất vọng cho một số ‘fan’
cuồng điện ảnh, nhưng ngược lại với cái khổ ấy là: nếu bạn thấy hài lòng
những gì Disney đã tuôn ra trong vài năm gần đây, biết đâu cách tiếp
cận này cũng không đến nỗi là ý kiến tệ hại?
Dịch: © Hải Đăng @Quaivatdienanh.com
Nguồn: SlashFilm