Điện ảnh Hồng Kông đang sáp nhập vào nền điện ảnh Trung Quốc rộng lớn
hơn, thu về sức mạnh song đồng thời cũng mất đi bản sắc riêng
Điện ảnh Hồng Kông từng là một trong ba nền điện ảnh lớn nhất toàn thế
giới, chỉ xếp sau Hollywood và Bollywood về năng suất. Nói chính xác là
vậy. Nếu tính theo đầu người, điện ảnh Hồng Kông có thể còn lớn hơn bất
kỳ nền điện ảnh nào trên thế giới.
Trái: Bản sắc anh hùng; phải: Chuyện đồng thoại mùa thu - những phim Hồng Kông thập niên 1980
có tiếng vang trong cộng đồng người Hoa khắp thế giới
Như mọi ngành công nghiệp điện ảnh khác, Hồng Kông cũng trải qua nhiều
chu kỳ kinh doanh. Khi người viết bị phim Hồng Kông mê hoặc hồi thập
niên 1980 - ở khu phố người Hoa tại San Francisco không hơn, nền điện
ảnh này đang vươn lên đỉnh cao.
Bản sắc anh hùng (1986) của Ngô Vũ Sâm khuấy động cơn sốt giữa những người yêu phim, kể cả cộng đồng người Hoa nhỏ bé giữa lòng thành phố cảng.
Chuyện đồng thoại mùa thu
(1987), câu chuyện xúc động về cộng đồng ở khu phố người Hoa tại New
York, khiến một hàng dài người chen chúc vào khu người Ý lân cận để xem
buổi chiếu ra mắt phim lúc nửa đêm. “Phụ nữ là rắc rối” ("Women are
trouble"), câu nói phê phán chủ nghĩa sô vanh của Châu Nhuận Phát che
giấu sự quan tâm của anh đối với nữ diễn viên chính, biến thành câu nói
thông dụng khi anh phát âm sai từ "trouble", khiến câu này thành “Phụ nữ
là ấm trà” ("Women are teapots").
Lượng người hâm mộ kỳ cựu của
điện ảnh Hồng Kông tại Đại lục không có được nền giáo dục không chính
quy từ các buổi chiếu tại khu phố người Hoa như tác giả bài viết. Họ học
hỏi từ những chương trình chiếu phim nguyên ngày ở các sảnh mục nát
trong các thị trấn nhỏ trên khắp đất nước. Các buổi chiếu đó vừa bao
quát lại vừa có chiều sâu, dồn hàng thập kỷ xem phim lại chỉ trong vài
năm.
Vào những năm 1990, nhiều phim Hồng Kông được quay tại Đại
lục, sử dụng nguồn nhân lực dồi dào hơn và rẻ hơn, cũng như nhiều lựa
chọn địa điểm. Trên danh nghĩa là đồng sản xuất, nhưng các đối tác Đại
lục chỉ bỏ tiền vào bản quyền, mà thời đó phần này chỉ do các hãng phim
nhà nước nắm giữ. Những phim như
Tân Tây Du Ký (1995) hoàn toàn là chất xám của Hồng Kông.
Tạo hình của Châu Tinh Trì trong Tân Tây Du ký
Nhưng bộ phim bắt chước về Tôn Ngộ Không của Châu Tinh Trì không thành
công cho tới khi các sinh viên đại học bắt đầu xem qua đĩa lậu và tạo ra
đủ loại phiên bản từ đó. Người ta xem phim với sự sùng bái nhiệt tình
đến mức nhiều câu thoại biến thành mật ngữ của giới trẻ.
Song,
suốt thập niên 90, công nghiệp điện ảnh Hồng Kông lại xuống dốc, chạm
đáy vào năm 2003 khi dịch SARS tấn công đặc khu hành chính Hồng Kông.
Một phần do hậu quả của đại dịch và những lời bào chữa của ngành này và
chính phủ Hồng Kông, chính quyền trung ương gom cả công nghiệp điện ảnh
Hồng Kông vào gói thúc đẩy kinh tế của mình, có tên chính thức là Hiệp
định đối tác kinh tế thân cận.
Theo chính sách mới này, phim Hồng
Kông không còn bị xếp vào diện nhập khẩu và do đó, không bị giới hạn
bởi hạn ngạch (20 phim mỗi năm vào thời gian đó, giờ tăng lên 34 phim).
Là sản phẩm nội địa, phim Hồng Kông chịu mức độ kiểm duyệt nội dung
tương tự.
Ấy vậy mà kiểm duyệt chỉ cho thấy phân nửa vấn đề, nửa
còn lại là do các nhà làm phim Hồng Kông đang nhắm tới khán giả Đại lục.
Độ nhạy cảm đặc biệt ẩn chứa trong nhiều phim Hồng Kông được cho là một
phần của văn hóa địa phương, chỉ có ai biết tiếng Quảng Đông địa phương
mới hiểu và không thể vượt quá vùng đồng bằng Châu Giang. Điều này bị
loại bỏ trong nỗ lực vươn tới thị trường lớn hơn.
Thiên hạ vô tặc với Lưu Đức Hoa diễn cùng các diễn viên Đại lục: Cát Ưu, Lý Băng Băng, Lý Nhược Anh
Các nhà làm phim Hồng Kông có giá hơn trong những năm đầu của hiệp định,
nhưng một nền điện ảnh hợp nhất thực sự lại không phát triển trong một
thời gian dài. Một phim Đại lục như
Thiên hạ vô tặc có thể mời
được một siêu sao Hồng Kông (trường hợp này là Lưu Đức Hoa), nhưng thực
chất vẫn là sản phẩm của Đại lục. Mặt khác, phim Hồng Kông ngày càng
giao cho các diễn viên Đại lục nhiều vai diễn tiêu biểu. Những vụ cãi cọ
ầm ĩ trên phim trường giữa hai bên thỉnh thoảng tràn khắp mặt báo, hậu
quả của phong cách làm việc và đạo đức nghề nghiệp trái ngược nhau.
Diễn
viên Hồng Kông bắt đầu nhận thấy sự gượng gạo đi kèm với thị trường
bành trướng. Phim về tội phạm và phim kinh dị, hai thể loại được biết
đến là dễ thu lời từ đầu tư và phục vụ cho việc đào tạo tài năng mới,
lại bị cấm cửa vì thường rơi vào dạng phim cấm phát hành. Khó khăn hơn
nữa là có những chi tiết nhất định có thể xung đột với kiểm duyệt.
Đầu danh trạng
Là những doanh nhân khôn ngoan, các nhà làm phim Hồng Kông rất nhanh
nhạy trong việc đánh giá môi trường thay đổi và ít khi than phiền dưới
danh nghĩa cảm xúc nghệ thuật.
Đầu danh trạng (2007) của Trần Khả Tân tưởng chừng là bản làm lại của
Blood Brothers
(1973), nhưng hai bộ phim chỉ liên hệ với nhau bởi một vụ ám sát quan
chức nhà Thanh có thật và, vì nhiều lý do không thể lý giải, có thể
khiến nhiều nhân vật quyền lực khó chịu. Do đó, câu chuyện được hư cấu
thêm nhiều.
Năm 2008, khi
Họa bì được phát hành, khó mà
phân biệt nguồn gốc của một phim tiếng Hoa. Câu chuyện ma quái của đạo
diễn Trần Gia Thượng dựa theo một tác phẩm văn học kinh điển, do đó
tránh được những quy tắc phi dị đoan. Viễn cảnh hợp nhất đằng sau bộ
phim lịch sử này vượt qua mọi rào cản địa phương, và việc đạo diễn là
người Hồng Kông có vẻ không liên quan. Phần tiếp theo sắp ra mắt do Ô
Nhĩ Thiện, một đạo diễn mới từ Đại lục chỉ đạo.
Song, vẫn còn
đó những băn khoăn tại sao phim Hồng Kông bế tắc. Giữa cơn sốt giành lấy
thị phần lớn, điện ảnh Hồng Kông đã mất đi sức hút của mình - cho tới
khi ai đó lại kể những câu chuyện tinh túy của Hồng Kông lần nữa và vô
tình đạt được sự tán thưởng rộng rãi hơn,
The Way We Are (
Ngày và đêm ở Thiên Thủy Vi) (2008) của Hứa An Hoa và
Echoes of the Rainbow
(2010) của La Khải Nhuệ không định xâm nhập thị trường Đại lục, nhưng
cuộc sống thường nhật của người dân Hồng Kông, như ta thấy trong những
phim nghệ thuật nhỏ, lại gây tiếng vang với một lượng lớn khán giả Đại
lục.
Trái: Ngày và đêm ở Thiên Thủy, phải: Echoes of the Rainbow - hai phim nghệ thuật nhỏ của Hồng Kông
lại thu hút một lượng lớn khán giả Đại lục
Bên cạnh đó, một số nhà làm phim Hồng Kông lui về để bảo tồn nhãn quan
nghệ thuật của họ - hay vì phải làm thế. Đạo diễn Đỗ Kỳ Phong, được biết
đến nhờ những phim tội phạm đậm chất ngụ ý chính trị, đến nay vẫn phản
đối việc giảm bớt tính bạo lực và bóng gió đã thành thương hiệu của ông
để tiến vào thị trường phía bắc. Những người khác thì tìm được chỗ phù
hợp trong những thể loại quá giật gân để khán giả Đại lục tiếp cận. Thể
loại tình dục có lẽ sẽ hồi sinh đôi chút sau khi phim 3D
Sex and Zen: Extreme Ecstasy
(2011) thu hút hàng loạt du khách Đại lục, vốn bị quyến rũ bởi màn
trình diễn sinh động như thật trong những cảnh nóng, một phần không thể
thiếu trong chuyến du lịch Hồng Kông của họ.
Những thể loại nhạy cảm khác chỉ nở rộ ở Hồng Kông bao gồm các phim về tình dục đồng giới công khai và sinh động như
Amphetamine (2010) và
Permanent Residence (2009).
Với
những ai hiểu được ngôn ngữ nói của tiếng Hoa, dấu hiệu để nhận biết đó
là phim Hồng Kông hay Đại lục là lời thoại. Nếu một phim hay thất bại
khi xem bằng tiếng phổ thông thì đó là phim Hồng Kông, cho dù có thể
phim được quay hoàn toàn tại Bắc Kinh hay Thượng Hải.
Love in a Puff (2010) và phần tiếp theo
Love in the Buff
(2012) của đạo diễn Bành Hạo Tường nói về một cặp đôi trẻ tuổi người
Hồng Kông yêu nhau trong những giờ nghỉ hút thuốc và sau đó chuyển đến
Bắc Kinh. Thay vì tìm sự tương đồng đóng vai trò nền tảng trong hầu hết
các mối tình của người thành thị, Bành Hạo Tường lại dùng những khác
biệt vùng miền làm bảng màu tô vẽ cho một chuyện tình nay hợp mai tan.
Câu chuyện bên lề về cô nàng Jane chất phác người Hồng Kông cuối cùng
lại yêu một anh chàng hoàn hảo người Đại lục rất đơn giản và hài hước đả
kích. Câu chuyện còn có thể hiểu được với ngụ ý về mối quan hệ đang
phát triển giữa Hồng Kông và Đại lục, như những phim Hồng Kông khác ngầm
bộc lộ một cách tinh tế.
Trái: Love in a Puff (2010) với bối cảnh câu chuyện hoàn toàn ở Hồng Kông,
phải: Love in a Buff (2012): bối cảnh chuyển đến Bắc Kinh
Khi mà ngày càng nhiều nhà làm phim Hồng Kông trụ lại ở Bắc Kinh, Hồng
Kông với địa vị là kinh đô điện ảnh phương Đông đã không còn tồn tại.
Chuyên môn và nguồn lực từ Hồng Kông đã ngấm vào điện ảnh Trung Quốc
thành một khối với sự chuyên nghiệp và bền bỉ. Bắc Kinh hiện nay là
trung tâm làm phim Hoa ngữ, nhưng có lẽ Hồng Kông vẫn duy trì được vị
thế thành trì của sức sáng tạo và sự kiên trì, trong điện ảnh hoặc lĩnh
vực khác.
Dịch: © Thái Hiền @Quaivatdienanh.com
Nguồn: China Daily
Hãy chia sẻ ý kiến của bạn về bài viết này trên
Facebook của chúng tôi