Một đêm đông ở thủ đô nước Đức, đạo diễn Hồng Kông Đỗ Kỳ Phong dẫn đầu đoàn phim của ông, Sparrow, bộ phim về những người móc túi của thành phố, bước lên thảm đỏ của buổi công chiếu tại Liên hoan phim quốc tế Berlin.
Đoàn phim đầy hăng hái với trang phục lộng lẫy vẫy chào người hâm mộ và
các tay nhiếp ảnh xếp hàng dọc thảm đỏ, trả lời của phỏng vấn của các
phóng viên bay tới đây từ mọi nơi thế giới. Ở thời điểm đó, Hồng Kông là
trung tâm của vũ trụ.
Cảnh phim Sparrow của đạo diễn Đỗ Kỳ Phong
Đó là năm 2008 – lần cuối một phim Hồng Kông được chọn tranh giải Gấu
Vàng, giải cao quý của một liên hoan phim đã kỷ niệm năm thứ 66 vào ngày
11 tháng 2 qua.
Phân tích các phim tham dự từ ba liên hoan phim
cao quý nhất thế giới – Liên hoan phim quốc tế Berlin, Liên hoan phim
Cannes và Liên hoan phim Venice – cho thấy các phim Hồng Kông có ít, gần
như không có mặt trong các năm gần đây. Cũng không có phim Hồng Kông
nào trong các đề cử Phim hay nhất cho Lễ trao giải Điện ảnh châu Á
(Asian Film Awards) năm nay.
So với hồi cuối thập kỷ 90 và đầu
những năm 2000 khi phim và nhà làm phim Hồng Kông là trung tâm của sự
chú ý, chen vai với những bậc thầy trên khắp thế giới và thậm chí đánh
bại họ ở những giải lớn công nhận tài năng nghệ thuật, thì điện ảnh Hồng
Kông chắc chắn đã mất đi sức hút.
“Đúng là không nhiều phim của
thế hệ làm phim sau có thể đến được các liên hoan phim tầm cỡ đó,” đạo
diễn Hoàng Tu Bình, một ngôi sao đang lên sau khi nhận được nhiều lời
khen cho phim kinh phí thấp
The Way We Dance và phim ăn khách
She Remembers, He Forgets.
Cảnh phim She Remembers, He Forgets của Hoàng Tu Bình
“Chúng ta cần đưa phim của mình trở lại vũ đài thế giới,” anh nói. “Phim
kể những câu chuyện ở Hồng Kông và mang bản sắc văn hóa xứng đáng có
được sự chú ý của oàn thế giới, như điện ảnh Hồng Kông trong quá khứ.”
Những
người trong ngành và các nhà phê bình nhận thấy sự hiện diện giảm sút
trên toàn cầu của điện ảnh Hồng Kông trong thập kỷ qua có nguyên nhân
lớn từ thị trưởng phim Đại lục mới nổi và sự suy giảm của ngành điện ảnh
và truyền hình đặc khu này. Sự yếu kém đó xảy ra mặc cho chính sách của
chính phủ và hỗ trợ công chúng cứu vãn tình hình.
Có người nói
rằng khi thị trường phim Đại lục rộng lớn mang về lợi nhuận, nguồn cung
gồm tài năng và tiền bạc chảy qua Hồng Kông. Với ít phim làm ở địa
phương này và ngành truyền hình ngày càng nhỏ lại, các nhà làm phim trẻ
có ít cơ hội tu luyện hơn, khiến họ khó bắt kịp các tiền bối như Đỗ Kỳ
Phong.
Phùng Vĩnh, Tổng thư ký Hội đồng Phát triển Điện ảnh Hồng
Kông, kết luận rằng có “20 năm khoảng cách” và “các tài năng trẻ ở đây
chưa đạt tới tầm đó.”
Khoảng cách bộc lộ rõ trong danh sách tranh
giải các hạng mục chính tại các liên hoan phim lớn. Số lượng phim Hồng
Kông ít ỏi, và cơ hội tranh giải chỉ được trao cho các đạo diễn có tên
tuổi.
Đạo diễn Đỗ Kỳ Phong (giữa) và dàn diễn viên trên thảm đỏ buổi chiếu Life Without Principle
tại Liên hoan phim Venice lần thứ 68, năm 2011
Từ 2007,
Sparrow của Đỗ Kỳ Phong là phim Hồng Kông duy nhất tranh giải lớn tại Berlinale. Từ 2006, phim hành động ly kỳ
Vengeance (2009) của Đỗ Kỳ Phong và
My Blueberry Nights
(2007) của Vương Gia Vệ là hai phim Hồng Kông duy nhất tranh Cành cọ
vàng, giải cao quý nhất của Liên hoan phim Cannes. Đáng chú ý, phim của
Vương Gia Vệ có một dàn sao nổi tiếng phương Tây, gồm Norah Jones và
Jude Law.
Các phim Hồng Kông có thành tích tốt hơn tại Liên hoan phim Venice. Phim ly kỳ tội phạm
Life Without Principle (2011) của Đỗ Kỳ Phong và phim chính kịch
A Simple Life (tựa Việt:
Dì Đào)
(2011) của Hứa An Hoa được chọn tranh giải Sư tử vàng trong cùng một
năm, và Diệp Đức Nhàn thắng giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho vai diễn
ngươi hầu trong bộ phim của Hứa An Hoa.
Phim chính kịch ly kỳ cổ trang
Detective Dee and The Mystery of Phantom Flame của đạo diễn Từ Khắc của Hồng Kông tranh giải tại Venice năm 2010, nhưng được coi là một tác phẩm của Trung Quốc Đại lục.
Năm trước đó có Trịnh Bảo Thụy vào cuộc với phim ly kỳ hành động
Accident (2009); đạo diễn này, ở tuổi 44, là đạo diễn duy nhất từ thế hệ trẻ hơn. Còn lại là các đạo diễn ở tuổi 60+.
Đạo diễn Từ Khắc
Ở các liên hoan phim này, một số phim Hồng Kông được trình chiếu ngoài
hạng mục tranh giải, ra mắt tác phẩm mới của các đạo diễn nổi tiếng như
Đỗ Kỳ Phong, Từ Khắc, Vương Gia Vệ và Ngô Vũ Sâm. Bộ phim mới nhất của
Vương Gia Vệ, siêu phẩm võ thuật
The Grandmasters (
Nhất đại tông sư), là phim mở màn cho Berlinale năm 2013.
Trái
ngược là, số lượng phim được sản xuất mỗi năm tăng từ 51 năm 2007 – năm
Quỹ Phát triển Điện ảnh được thành lập – tới 59 năm ngoái, theo số liệu
từ Hiệp hội Điện ảnh và Sân khấu Hồng Kông. Doanh thu phòng vé tăng gấp
đôi từ 1,1 tỉ đôla Hồng Kông năm 2008 tới gần 2 tỉ đôla Hồng Kông năm
ngoái.
Bất kể xu thế gia tăng này, điện ảnh Hồng Kông vẫn chưa
thể đến gần ngày tháng huy hoàng ở thập kỷ 90 khi gần 300 phim được sản
xuất hằng năm, mang về cho thành phố cảng biệt danh “Hollywood phương
Đông”.
Shu Kei, nhà làm phim đoạt giải và chủ tịch khoa phim và
truyền hình tại Học viện Sân khấu, nói rằng các phim địa phương có thành
tích tồi tàn trong thập kỷ qua. “Tiêu chuẩn nghệ thuật đã tụt lùi,” ông
nói, bình luận thêm rằng thị trường hiện tại không cho phép các nhà làm
phim trẻ tỏa sáng.
Đạo diễn Hứa An Hoa phát biểu nhận giải Đạo diễn xuất sắc cho A Simple Life
tại giải Kim Tưỡng (Hong Kong Film Awards - HKFA) lần thứ 31, năm 2012
Sự phát triển của thị trường phim Đại lục – giờ là thị trường lớn thứ
hai thế giới sau Bắc Mỹ – đã lôi kéo các nhà đầu tư nhìn lên phía bắc,
Shu nói. Khu vực này không thể sản xuất thêm được những ngôi sao hạng A
thành công như Châu Nhuận Phát, Lương Triều Vỹ hay Trương Mạn Ngọc.
“Khi
ngành phim đạt đỉnh cao, nó mang về rất nhiều đầu tư bởi sẽ sinh lời
nhanh chóng,” Shu noi. “Nhưng khi lợi nhuận không tốt, các nhà đầu tư
hết hứng thú.”
Phùng Vĩnh, một người có thâm niên trong ngành,
nhớ về những ngày đầu của ông khi tham gia các phim kinh phí thấp với
mục đích thắng giải.
“Nếu một dự án không có giá trị kinh doanh
cao, chúng tôi phải đảm bảo có thể quảng bá được các thành tích về nghệ
thuật,” ông giải thích. “Bên cạnh thị trường đại chúng, có một thị
trường ngách cho điện ảnh nghệ thuật, nhưng dự án của bạn phải đạt một
số yêu cầu.”
Đạo diễn Trịnh Bảo Thụy, bìa phải, cùng dàn diễn viên phim Accident trên thảm đỏ Liên hoan Venice năm 2009
“Sau hiệp định CEPA năm 2003, ngành phim Hồng Kông bước vào thời đại hợp
tác sản xuất với các hãng phim Đại lục, vì những phim đó có thể được
miễn quota của Đại lục và được phát hành khắp đất nước như những phim
Đại lục khác.
Còn những phim Hồng Kông không hợp tác sản xuất với
Đại lục, chúng chỉ có thể được coi là phim nhập, nhà sản xuất Winnie
Tsang nói.
Phùng Vĩnh nói thêm là thị trường Hồng Kông với 7
triệu người không thấm gì so với thị trường 1,3 tỉ người của Đại lục.
“Dù thị trường Đại lục không hẳn thoáng đãng và vẫn có vấn đề kiểm
duyệt, tại sao không khám phá thêm thị trường này?” ông hỏi.
Nhưng khi thị trường Đại lục trở thành một mỏ vàng, các nhà đầu tư mất hứng thú với các thị trường địa phương nhỏ lẻ.
Vương
Anh Vĩ, Chủ tịch Viện giải thưởng điện ảnh châu Á và Cộng đồng Liên
hoan phim quốc tế Hồng Kông, nói rằng số lượng phim hợp tác sản xuất
tăng lên, và ngành phim Hồng Kông giờ có một khoảng trống trước mặt.
Các bảng quảng cáo phim tại Hội chợ phim Hồng Kông tháng 3/2016
“Những người làm phim như Từ Khắc đã đi làm phim Đại lục, và các nhà đầu tư cũng đi luôn,” Vương Anh Vĩ nói.
Một số nhà làm phim đơn giản là hết hứng thú với thị trường này.
“Doanh thu phòng vé Hồng Kông chỉ bằng 1/25 phòng vé Đại lục,” đạo diễn Vương Tinh từng nói.
Vương
Tinh gần đây bị cư dân mạng phê phán khi nói về sự thất bại của thế hệ
trẻ Hồng Kông trong việc kiếm tiền mua tài sản. Vài người kêu gọi bỏ
phim bom tấn Tết
From Vegas to Macau III của ông, một tác phẩm
hợp tác sản xuất giữa Hồng Kông và Đại lục. Phần tiếp theo thu về hơn 1
tỉ nhân dân tệ tại Đại lục năm ngoái.
“Tôi chẳng lo về việc [phim
bị khán giả quay lưng] chút nào,” vị đạo diễn, người thẳng thắn phản
đối các cuộc biểu tình "Cách mạng ô dù" nói lại. “Mọi người kêu gọi quay
lưng với phim sau đợt biểu tình nhưng
From Vegas to Macau II vẫn là phim Hoa ngữ mang về nhiều tiền nhất,” ông viết trên tài khoản Weibo của mình.
Trương Gia Huy và Châu Nhuận Phát trong The Man from Macau II
Quỹ phát triển Điện ảnh, thành lập năm 2007, dự định lấp đầy khoảng
trống đó. Với khoản đầu tư 300 triệu đôla Hồng Kông từ cộng đồng, quỹ
này đã chịu chi 91 triệu đôla Hồng Kông để đầu tư cho 33 dự án đem về 96
giải thưởng trong và ngoài nước, dù chỉ số ít là các giải chính ở các
liên hoan phim lớn. Trong số này có 17 phim đạo diễn đầu tay.
Hội
đồng Phát triển Điện ảnh cũng thành lập Sáng kiến hỗ trợ phim đầu tay
để giúp các nhà làm phim mới lập nghiệp, và hội đồng đã bắt đầu giai
đoạn ba vào tháng 3 năm nay tại Filmart. Năm ngoái một kế hoạch tài trợ
mới được thực hiện để hỗ trợ các nhà làm phim trẻ làm các dự án kinh phí
thấp.
Kết quả, số lượng sản xuất tăng lên. Phùng Vĩnh nói số
lượng “phim Hồng Kông thuần túy” – các dự án không liên quan tới Đại lục
– tăng từ 16 năm 2011 lên 28 năm ngoái.
“Chúng ta chỉ có thể trao cơ hội cho những tài năng trẻ,” Phùng Vĩnh nói. “Họ thành tài ra sao là ngoài tầm kiểm soát.”
Thời
gian và luyện tập là cần thiết, nhưng ngành truyền hình đang thu nhỏ
của Hồng Kông cũng làm cho tình hình phức tạp hơn. Biên kịch và sản xuất
Trần Tâm Dao liên tục kêu gọi thành phố cảng quan tâm tới mảng truyền
hình, từng là nơi rèn giũa nhiều tài năng.
Từ trái qua: Lương Triều Vỹ, Vương Gia Vệ và Chương Tử Di tại Liên
hoan phim Berlin lần thứ 63,
Vương Gia Vệ là chủ tịch hội đồng giám
khảo, còn Nhất đại tông sư mở màn kỳ liên hoan phim năm 2013 này
Một số nhà làm phim như Đỗ Kỳ Phong và Vương Gia Vệ thắng giải tại các
liên hoan phim quốc tế là người cũ của TVB. Nhưng sự thống trị lâu năm
của nhà đài có nghĩa các tài năng không có sự vận động đi lên, theo
nhiều người trong ngành.
Shu Kei cho rằng dùng các liên hoan phim
quốc tế làm cột mốc để đo tiêu chuẩn nghệ thuật cho phim Hồng Kông
không hoàn toàn công bằng.
“Các liên hoan phim đã trở nên thương
mại hơn và theo đuổi một dàn sao để lôi kéo truyền thông,” ông nói. “Một
số phim lựa chọn tranh giải còn không đạt tiêu chuẩn nghệ thuật.”
Nhưng hy vọng chưa bị dập tắt. Thành công gần đây của phim độc lập kinh phí thấp
Ten Years,
miêu tả khung cảnh u ám của Hồng Kông năm 2025 dưới sự kiểm soát của
Trung Quốc, vượt hơn 5 triệu đôla Hồng Kông tại phòng vé. Ba đạo diễn
của phim từng là học trò của Shu Kei.
Cảnh trong phim Ten Year
“Chứng tỏ là chừng nào phim có ý nghĩa với khán giả, họ sẽ tiếp tục mua
vé,” ông nói. “Thế hệ trẻ có quy tắc và theo đuổi sự xuất sắc trong nghệ
thuật. Ta không được mất hy vọng.”
5 phim Hồng Kông được khen ngợi ở các liên hoan phim lớn của thế giới
• Happy Together (Xuân quang xạ tiết) (1997) – Đạo diễn xuất sắc nhất cho Vương Gia Vệ, Liên hoan phim Cannes
Có
Trương Quốc Vinh và Lương Triều Vỹ đóng vai một cặp tình nhân trong mối
quan hệ tan vỡ, bộ phim theo chặng đường đến Argentina tìm cuộc sống
tốt đẹp hơn của họ. Bộ phim được khen ngợi trên toàn thế giới và đạo
diễn Vương Gia Vệ nhận giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Cannes. Ông là
đạo diễn Hồng Kông đầu tiên nhận giải này tại liên hoan phim lớn nhất
thế giới.
• In the Mood for Love (tựa Việt: Tâm trạng khi yêu)
(2000) – Nam diễn viên xuất sắc nhất cho Lương Triều Vỹ, Cannes; Phim
ngoài châu Âu hay nhất, Liên hoan phim châu Âu; Phim nước ngoài hay
nhất, giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim New York
Cũng do
Vương Gia Vệ đạo diễn, bộ phim có Lương Triều Vỹ và Trương Mạn Ngọc
trong vai hai người phát hiện vợ chồng họ ngoại tình với nhau. Vai diễn
nhà văn đau khổ vì tình đơn phương của Lương Triều Vỹ mang về giải Nam
diễn viên xuất sắc nhất tại Cannes, khiến anh là nam diễn viên Hồng Kông
đầu tiên được vinh danh này.
• Centre Stage (Nguyễn Linh Ngọc) (1992) – giải Gấu bạc Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Trương Mạn Ngọc, Liên hoan phim quốc tế Berlin
Do
Quan Cẩm Bằng đạo diễn, bộ phim dựa trên câu chuyện thật về Nguyễn Linh
Ngọc, một ngôi sao của thập kỷ 30 được mệnh danh là “Greta Garbo Trung
Hoa” nổi tiếng ở tuổi 16 nhưng tự tử ở tuổi 24. Diễn xuất mạnh mẽ của
Trương Mạn Ngọc trong vai Nguyễn Linh Ngọc đã mang về giải Nữ diễn viên
xuất sắc nhất tại Berlin.
• Summer Snow (Nữ nhân tứ thập) (1995) – giải Gấu bạc Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Tiêu Phương Phương, Liên hoan phim quốc tế Berlin
Do
Hứa An Hoa đạo diễn, bộ phim có diễn viên kỳ cựu Tiêu Phương Phương vào
vai một người nội trợ gánh trách nhiệm chăm sóc bố chồng mắc bệnh
Alzheimer. Diễn xuất được chăm chút tuyệt diệu của Tiêu Phương Phương
mang về giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Berlin.
• A Simple Life (2011) – Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho Diệp Đức Nhàn, Liên hoan phim Venice
Nữ
diễn viên gạo cội Diệp Đức Nhàn vào vai dì Đào, người giúp việc dành cả
đời phục vụ một gia đình. Bộ phim chính kịch cảm động kể chuyện những
ngày cuối của dì Đào và mối quan hệ của bà và thiếu chủ trẻ của gia đình
do Lưu Đức Hoa thủ vai. Diệp Đức Nhàn thắng giải Nữ diễn viên xuất sắc
nhất tại Venice. Bộ phim là một phim của Hứa An Hoa được giới phê bình
khen ngợi.
|
Dịch: © Phương Hà @Quaivatdienanh.com
Nguồn: South China Morning Post