Phim Việt những năm gần đây phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất
lượng. Về số lượng, chỉ tính riêng năm 2010 đã có trên dưới 10 phim
truyện mới được công chiếu rộng rãi tại các rạp. Về chất lượng, nếu tạm
coi thước đo là sự quan tâm của khán giả thông qua doanh thu mà bộ phim
đạt được thì một số phim không thuộc thể loại giải trí cũng đã vượt
ngưỡng 10 tỷ đồng doanh thu bán vé. Hiện tượng này nói lên điều gì?
Lượng tăng, chất đứng
bộ phim hay, hấp dẫn, đó là một bộ phim cho người xem có cảm giác thỏa
mãn. Ranh giới của một tác phẩm điện ảnh với câu chuyện được hình thành
từ trí tưởng tượng của các nhà làm phim bị xóa nhòa khi khán giả bước
chân vào thế giới của bộ phim, bị cuốn hút vào nội dung phim, đắm chìm
trong đó, thậm chí có thể quên đi những tồn tại, hạn chế mà bất cứ bộ
phim nào cũng ít nhiều gặp phải.
Còn bằng lòng là chấp nhận
những gì mình có. Có nhiều lý do để có thể bằng lòng: điện ảnh của ta
chưa phát triển, còn thiếu chuyên nghiệp, khán giả của ta chấp nhận
những sản phẩm được cung cấp, thị trường phim Việt đang bắt đầu nóng
lên, số lượng các nhà sản xuất cũng đang tăng dần lên, số lượng diễn
viên ngày càng đông, đời sống của những người làm phim được cải thiện rõ
rệt…
Tuy nhiên, sự bằng lòng đã kìm hãm sự phát triển. Bằng
chứng là hơn 10 năm qua, kể từ khi điện ảnh Việt Nam có dấu hiệu hồi
sinh, chất lượng của các phim Việt không tăng là bao, dù doanh thu từ
phát hành phim Việt ngày càng cao. Đa số những bộ phim thời gian qua là
những phim giải trí, ít nhiều mang đến cho khán giả những giây phút thư
giãn, song xem xong là quên, không đọng lại được gì. Các nhà đầu tư, sản
xuất chăm chăm vào việc làm sao để thỏa mãn thị hiếu của số đông khán
giả, làm sao để phim có lời càng nhiều càng tốt.
Với dòng phim
chính luận, thật khó để đưa ra một nhận xét khách quan. Dường như luôn
có hai luồng tư tưởng đối lập khi đánh giá những bộ phim thuộc dòng phim
này. Luồng tư tưởng thứ nhất luôn nhìn các bộ phim với cái nhìn độ
lượng, cảm thông, xem xét, đánh giá chất lượng bộ phim dựa trên điều
kiện làm phim, tâm huyết của những người làm nghề và cố gắng tìm kiếm
những mặt được của phim như hình ảnh, bối cảnh, âm nhạc, giá trị nhân
văn trong phim…
Luồng tư tưởng thứ hai là không thể chấp nhận,
những người đại diện cho luồng tư tưởng này luôn cho rằng đây là những
bộ phim gây lãng phí (phim có sự tài trợ kinh phí từ quốc gia), nhạt
nhẽo, không đáng làm và cũng không đáng coi.
Phim Khát vọng Thăng Long bị coi là bước lùi của đạo diễn Lưu Trọng Ninh khi hợp tác làm phim cùng tư nhân
Bước lùi
Sự
xuất hiện của các hãng phim tư nhân, các nhà sản xuất và làm phim Việt
kiều đã thổi một luồng sinh khí mới cho điện ảnh Việt Nam. Phim Việt của
các nhà làm phim này được hình thành bởi một dây chuyền khép kín từ sản
xuất tới phát hành. Từ dây chuyền này, hàng loạt những bộ phim đã đến
được với khán giả nhanh hơn, ấn tượng hơn.
Thế nhưng mặt trái
của xã hội hóa điện ảnh là quyền hành tập trung trong tay nhà sản xuất,
thậm chí kể cả quyền sáng tạo nghệ thuật. Vai trò của đạo diễn giờ đây
chỉ là người làm thuê phải phục tùng những yêu cầu mà nhà sản xuất đưa
ra. Phải chọn diễn viên này thay vì diễn viên kia, phải đưa cái này, cái
kia vào phim để làm quảng cáo, để có thêm nguồn thu, bất chấp tính
logic… Một số đạo diễn có tên tuổi trong dòng phim chính luận được thuê
làm phim cho tư nhân đã phải chấp nhận thỏa hiệp và bước lùi với chính
mình.
Mới đây đạo diễn Phillip Noyce trong cuộc trò chuyện về
điện ảnh Việt Nam đã nói rằng, Việt Nam có thuận lợi bởi chính nguồn nội
lực dồi dào là dân số đông, hơn 85 triệu dân. Nếu biết tận dụng nguồn
nội lực này, chỉ cần sản xuất phim phục vụ trong nước không thôi các bạn
cũng đã rất thành công…
Với việc làm giám khảo tại Liên hoan
phim quốc tế Việt Nam, có lẽ vị đạo diễn này cũng đã nhìn thấy phần nào
diện mạo chung của phim Việt. Câu nói của ông có thể xem như một lời
động viên, song cũng có thể hiểu đó là một nhận xét: phim Việt hiện nay
chưa thể vươn tầm ra thế giới.
Tuy nhiên, một nhà điện ảnh nước
ngoài khác, ông Dean Wison thì nhận định: “Điện ảnh Việt Nam đã có một
kỷ nguyên vàng, đó là những thập niên 60-70. Đó là thời kỳ điện ảnh Việt
Nam nhận được sự hậu thuẫn lớn nhất của toàn xã hội, và đổi lại nó đã
tạo ra được một sức mạnh phi thường trong hoàn cảnh cuộc sống khắc
nghiệt để thể hiện rõ nét nhất gương mặt văn hóa và xã hội của đất nước
khi đó. Điện ảnh đã không còn thuần túy là một chuyên ngành nghệ thuật
mà đã trở thành tiếng nói chung của cả dân tộc”. Vậy phải chăng so với
quá khứ, điện ảnh Việt Nam đã đi một bước lùi?
Đạo diễn, Nghệ sĩ
nhân dân Hải Ninh trong một bài tham luận bàn về tính chuyên nghiệp của
điện ảnh Việt Nam đã phát biểu: “Để xoay chuyển một nền điện ảnh trì
trệ và lạc hậu như điện ảnh Việt Nam cần hai yếu tố cơ bản: những nhà
làm kinh doanh giỏi và một đội ngũ văn học, nghệ thuật và khoa học kỹ
thuật tài năng, có trình độ chuyên môn cao.”
Theo ông, lâu nay
những người trong giới cho rằng, cái yếu nhất của điện ảnh Việt Nam từ
sau đổi mới là thiếu một “kiến trúc sư” tài năng, một “minh chủ” tâm
huyết, tầm vóc. Những yếu nhân như vậy không những phải có trình độ,
kiến thức về các hoạt động điện ảnh mà còn là người có tầm nhìn xa hướng
phát triển của điện ảnh quốc gia và quốc tế, dám chịu trách nhiệm về sự
nghiệp điện ảnh nước nhà. Đấy là nhân cách và bản lĩnh để tạo ra một bộ
máy điều hành hữu hiệu, tìm một hướng đi mới cho điện ảnh Việt Nam, làm
sống lại không khí đam mê sáng tạo trong nghệ thuật.
Nguồn: Sài Gòn Giải Phóng