Phim 20 tỉ đồng Đào, phở và piano: Hà Nội chất chơi đến kiệt cùng
Trong
phim 20 tỉ đồng do nhà nước đặt hàng, hình ảnh đào, phở, piano liên tục
xuất hiện như một cách giải mã sự hồn nhiên và đầy chất chơi của người
Hà Nội một thời.
Một cảnh trong phim Đào, phở và piano
|
Chia sẻ với Tuổi Trẻ trong buổi ra mắt phim Đào, phở và piano
vào tối 24 tháng 9 năm 2023 tại Hà Nội, đạo diễn-tác giả kịch bản Phi
Tiến Sơn nói: “Tôi muốn làm một bộ phim để trả nợ cho Hà Nội của tôi.
Nếu bố tôi còn sống, chắc chắn cụ sẽ hài lòng.”
Ông cũng tiết lộ phim do nhà nước đặt hàng có kinh phí khoảng 20 tỉ đồng.
Phim về Hà Nội chất chơi
Đào, phở và piano lấy cảm hứng từ cuộc chiến 60 ngày đêm vào cuối năm 1946, đầu năm 1947 của quân dân Hà Nội.
Trong
những trận đánh cuối cùng trước khi quân ta rút khỏi Hà Nội năm 1947
lên chiến khu, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ, một số người vẫn
chọn ở lại chiến lũy.
Họ, có tên hoặc không có tên, cùng nhau kể một câu chuyện bi tráng mà không kém phần lãng mạn về “tâm hồn Hà Nội” trong khói lửa.
Người lính cảm tử (Doãn Quốc Đam đóng) băng qua lửa đạn để mang về một cành hoa đào nơi chiến lũy
|
Đó là một cảm tử quân (Doãn Quốc Đam đóng) băng qua lửa đạn để mang về
một cành hoa mùa xuân bởi “ngoài chiến lũy cũng thèm một cành đào đẹp.”
Anh
có một đám cưới cảm động với tiểu thư xinh đẹp Hà thành (Cao Thùy Linh
đóng) giữa một Hà Nội đổ nát. Họ trèo tít lên cao để ngắm nhìn thành phố
của họ trong đêm hạnh phúc cuối cùng (17 tháng 2 năm 1947).
Có mặt trong lễ cưới là họa sĩ già (NSƯT Trần Lực đóng) ở lại để hương khói cho những người đã hy sinh.
Ông
có một bức tranh cần hoàn thành và một vị linh mục (NSND Trung Hiếu
đóng) “không muốn chiến tranh”, “cần yên bình”. Hai người đã cùng ăn
phở, nói về nghệ thuật, uống rượu vì ngày mới - ngày “tận hiến”.
Vị linh mục “không muốn chiến tranh”, “cần yên bình” của NSND Trung Hiếu
|
Đó là một cậu bé đánh giày mơ yên vui ngày cũ, hãnh diện đội chiếc mũ
cảm tử quân trên đầu; một ông phán Tây học (ca sĩ Tuấn Hưng đóng) mê ca
trù theo đuổi chủ nghĩa lãng mạn đến tận cùng.
Và hai vợ chồng
hàng phở (Anh Tuấn và Nguyệt Hằng thủ vai) nấn ná chưa đi vì muốn nấu
cho anh em chiến lũy bát phở. Thời buổi chiến loạn, họ vẫn chờ một nắm
hành thơm Nhật Tân cho đủ vị, thong thả xay bột bằng cối đá, tráng bánh
phở, chờ miếng nạm nhừ.
“Nóng quá ăn mất ngọt, nguội quá mất
thơm”, :Cho ít hành, giấm tỏi, ớt vào.” Khán giả xem phim mà mùi thơm
của phở “xộc” vào tâm trí như một lát cắt sắc lẹm về cái chất chơi “tới
bến” của người Hà Nội.
Vợ chồng nhà bán phở của Anh Tuấn và Nguyệt Hằng
|
“Lâu rồi mới có một phim nhà nước xem được”
Đào, phở và piano
có mùi súng đạn, có hoang tàn, đổ nát, có cả máu và nước mắt nhưng cũng
có tiếng đàn piano chạy dài như một khúc trữ tình của Hà Nội, có những
cánh hoa đào bay phấp phới trong gió réo gọi tự do, có mùi thơm của phở,
có môi thắm má hồng và tình yêu đôi lứa.
Phòng chiếu phủ kín
người, khán giả yên lặng theo dõi. Thỉnh thoảng có tiếng cười khẽ trước
những tình tiết, đoạn đối thoại hài hước, nhẹ nhõm, xoa dịu không khí
căng thẳng của cuộc chiến.
Cũng có lúc nín thở, giật mình, toang
hoang cùng nhân vật và câu chuyện của họ. Đặc biệt, ở phân cảnh kết
phim, nhân vật nữ mặc áo dài trắng ôm bom ba càng đâm thẳng vào xe tăng
địch đẹp đến rụng rời, đẩy chất sử thi của phim lên cao.
Trong
đại cảnh bề bộn, ngổn ngang, đạo diễn Phi Tiến Sơn đã hướng ống kính vào
những con người nhỏ bé nhất. Đó chính là những “tiểu tự sự”, những phân
mảnh của Hà Nội, qua đó lột tả tận cùng thân phận của đời riêng trong
đời chung.
Ông phán Tây học của ca sĩ Tuấn Hưng (trái) mê ca trù theo đuổi chủ nghĩa lãng mạn đến tận cùng
|
Cách kể chuyện phi tuyến tính, đan cài hiện thực và ký ức. Cuộc chiến giữa “sắt” và “hoa” được xây dựng một cách cảm động.
Chủ
đề lòng yêu nước hòa trong chủ nghĩa nhân văn một cách tự nhiên, dung
dị. Tiếng động, âm thanh, khói lửa, hóa trang... được đầu tư kỹ càng,
không có sạn.
Đáng chú ý, âm nhạc Việt Nam (bản ca trù Chí làm trai và Đời đáng chán của Nguyễn Công Trứ, ca khúc Hồn tử sĩ của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Du kích ca của Đỗ Nhuận, Suối mơ của Văn Cao) đặt bên cạnh những bản nhạc Tây phương (La vie en rose của Édith Piaf, bản Liebestraum của Franz Liszt, bản Bridal Chorus
của Richard Wagner) hòa hợp, đồng điệu đưa khán giả tham dự vào một
không gian thâm trầm, lãng mạn, hào hoa, yêu và biết thưởng thức cái đẹp
của người Hà Nội xưa.
Đào, phở và piano có mùi súng đạn, có hoang tàn, đổ nát, có cả máu
và nước mắt nhưng cũng có tiếng đàn piano chạy dài như một khúc trữ tình
của Hà Nội
|
Một điều đáng tiếc nhất, có lẽ là hạn chế của Đào, phở và piano cũng như phim Việt nói chung, là bối cảnh.
Mặc
dù đã cố gắng “liệu cơm gắp mắm” để có một phim trường hoành tráng
nhất, chân thực nhất so với mặt bằng phim Việt làm về đề tài này, nhưng ở
mặt nào đó, bối cảnh nhỏ bé đã phần nào hạn chế tầm vóc mà nó nên có.
Nói
như đạo diễn Phi Tiến Sơn, “khi làm xong phim, lúc nào ta cũng có cảm
giác giá thế này thế kia. Nhưng thực ra tôi đã làm hết tất cả những gì
mà mình có thể.”
Dầu vậy, trong sự “chật chội” đó, Đào, phở và piano
đã vượt thoát khỏi tính chất của một phim đề tài chiến tranh cách mạng
được nhà nước đặt hàng để trở thành một bộ phim điện ảnh đích thực, thú
vị. Như một khán giả chia sẻ, “lâu rồi mới có một phim nhà nước xem được
như vậy.”
Trong sự “chật chội” đó, Đào, phở và piano đã vượt thoát
khỏi tính chất của một phim đề tài chiến tranh cách mạng được nhà nước
đặt hàng để trở thành một bộ phim điện ảnh đích thực, thú vị
|
Phim tụng ca tình yêu và cái đẹp. Đi vào thân phận con người trong những
tình huống ngặt nghèo của số phận, bộ phim của đạo diễn Phi Tiến Sơn
như khúc tráng ca về một thời, dành tặng cho Hà Nội của ông và của tất
cả mọi người. |