Có nhiều cách để bán được phim hoạt hình, nhưng việc giao quyền đạo diễn
vào tay người chịu trách nhiệm về phần tệ hơn trong hai phim Garfield
kinh khủng – được liệt vào danh sách những niềm tiếc nuối duy nhất của
Bill Murray – thì không phải là cách. Nhưng một dàn diễn viên chắc tay
vẫn là một dàn diễn viên chắc tay; Hop khoa trương về giọng
lồng tiếng của Russell Brand, Hugh Laurie, Laurie Metcalf và Hank
Azaria, trong lúc đó có sự tham gia của James Marsden, Kaley Cuoco, Bill
Hader, Elizabeth Perkins và Gary Cole. Họ đang chịu đựng chăng, hay
bằng cách nào đó họ có thể nâng tầm cho một ý tưởng đã trơ tráo cướp từ The Santa Clause của Tim Allen?
Có lẽ một thứ tươi mới mà Hop lấy làm lợi thế là việc thiếu
công nghệ 3D đáng ngạc nhiên, đặc biệt khi xem xét phần mở đầu chi tiết
về mặt thị giác; một cánh cửa thông qua nhà máy Đảo Phục sinh, nơi làm
ra tất cả sôcôla, đầy ứ các vòi phun thứ thực phẩm ngon lành này được
tạo ra từ đồ họa vi tính. Các hiệu ứng thị giác phát bệnh đó dĩ nhiên sẽ
hấp dẫn những ai hảo ngọt, và bọn trẻ chắc chắn sẽ thèm rỏ dãi, vì
những hiệu ứng thế này khá ấn tượng với một phim được sản xuất “thắt
lưng buộc bụng” hơn nhiều tác phẩm hoạt hình phổ biến hiện nay. Tuy
nhiên, khởi đầu hứa hẹn đó sớm bị hủy hoại khi các diễn viên người thật
bị buộc phải giao tiếp với những bạn diễn hoạt hình của họ, điều này
cũng đúng với nhiều phim loại này.
Poster Hop
Sự thừa mứa nhạc pop, cốt truyện nhàm, vớ vẩn, và sự lãng phí đáng tội
vẻ mê hoặc xảo quyệt của Russell Brand chỉ là một trong vài lý do khiến Hop có vẻ thất bại. Thay vì tạo nên một đợt chào mừng ca ngợi lễ Phục sinh, có cảm giác Hop
thiết tha muốn giữ nét thực tế kinh khủng, nhồi nhét các liên hệ tới
văn hóa đại chúng vào câu chuyện một chú thỏ thiếu niên, E.B (Brand lồng
tiếng), lẩn tránh trách nhiệm nhận lãnh chiếc áo choàng Thỏ Phục sinh
để theo đuổi nghiệp đánh trống ở Hollywood. E.B. chơi trò chơi điện tử Rock Band không dứt, như thể đó là chỉ thị theo hợp đồng, và đó thật sự là một bất ngờ nho nhỏ.
E.B. (phía trên) và Fred trong Hop
Tại Hollywood, E.B. sống cùng một con người, Fred O’Hare (Marsden thủ
vai), là một gã chểnh mảng vô tình đụng xe hơi trúng cậu và quyết định
nhận cậu về nuôi vì thấy tội lỗi. Nói thẳng ra là thật xấu hổ vì kịch
bản này quá phù hợp, do giọng lồng tiếng màu mè của Brand đặc biệt hữu
ích trong những phim hoạt hình kiểu này, thậm chí dù diễn xuất của anh
nhìn chung không phù hợp cho con nít nhìn và nghe. Tuy nhiên, sự không
hợp thực sự đến từ một đoạn kịch bản va chạm cùng quỹ đạo lầm lạc, mở
đường cho sự hài hước vô nghĩa nhạt nhẽo, như khả năng bài tiết ra kẹo
dẻo hình hạt đậu của E.B., sắp đặt cho màn hài khó tránh khi có người ăn
số kẹo đó. Nếu các biên kịch muốn làm cho lễ Phục sinh hấp dẫn, đây
không phải là cách…
Một thứ mà bộ phim làm hấp dẫn là hướng sự
chú ý vào việc người ta không hoảng khi thấy E.B, dù phim chưa bao giờ
dám đi xa hơn với ý tưởng hậu hiện đại phải thừa nhận là khá thú vị này.
Trong lúc một màn hài hước dễ thương và vui nhộn – khi E.B. giả làm đồ
chơi lúc Kaley Cuoco vuốt ve cậu – các màn còn lại xuống khó mà thấp hơn
được nữa trước khi David Hasselhoff xuất hiện với tư cách một vị giám
khảo chương trình theo phong cách Simon Cowell, mở đường một cách tự
nhiên đến một màn nhảy nhót ngẫu hứng lố bịch, được biểu diễn với niềm
hứng khởi hùng hổ đến mức suýt thành công, và có thể làm bạn cười phá
lên vì cái sự khó coi đáng ngờ vực.
Tuy nhiên, sự buồn cười trở
nên ngày càng mệt mỏi nhanh chóng, lên đến cực điểm ở việc E.B. phá hoại
buổi phỏng vấn xin việc quan trọng của anh chàng chểnh mảng Fred bằng
cách chơi trống cùng một nhóm nhạc công mù. Trước khi kết thúc, trọng
tâm vốn đã không đồng đều của bộ phim bị mất, và thậm chí cả giọng lồng
tiếng khích động của Brand, hay vai khách mời người thực om sòm của
chính anh, cũng không thể cứu vãn.
Hop (2011)
Phim không mang đến bất ngờ, và với số tiền bỏ ra tất cả những gì bạn
nhận được về cơ bản là một màn nhảy nhót quỵ lụy, những màn hài khập
khiễng và một màn trình diễn sôcôla quá cỡ hấp dẫn. Tránh phim này đi
thì hơn.
Dịch: © Mai Khanh @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Obsessed With Film