Thế hệ thứ sáu của các đạo diễn Trung Quốc, bao gồm Giả Chương Kha và
Lâu Diệp, đã đột phá gần 30 năm trước. Có thể không bao giờ có thế hệ
thứ bảy.
Với doanh thu phòng vé hơn 2,7 tỉ nhân dân tệ tính đến thời điểm hiện tại,
Moon Man
— phim hài giả tưởng về một phi hành gia kẹt trên mặt trăng — là quán
quân vô đối của mùa phim bom tấn hè. Nhưng nếu bạn hỏi bất kỳ ai trong
số hàng triệu người Trung Quốc đã mua vé, họ sẽ khó có thể nói được tên
vị đạo diễn đã đưa bộ phim đó vào cuộc sống.
Không nhất thiết
phải ngạc nhiên.
Moon Man do Trương Ngật Ngư chỉ đạo, một tay súng thuê
theo hợp đồng với đoàn hài kịch Mahua FunAge. Trước
Moon Man, Trương Ngật Ngư chỉ có duy nhất một phim ghi tên anh,
Never Say Die,
tác phẩm hoán đổi thân xác được biết đến vì tranh cãi xúc phạm giới
tính hơn là thành tích phòng vé. Lần này, khán giả đi xem vì diễn viên
hài Thẩm Đằng, một ngôi sao tài năng trong giới diễn viên hài Trung
Quốc; tầm nhìn của Trương Ngật Ngư đối với
Moon Man, trong chừng mực là có tầm nhìn đó, không liên quan đến thành công của bộ phim.
Đạo diễn và phim nổi bật thế hệ thứ nhất
|
Về mặt này, có nhiều trường hợp tương tự
Moon Man. Khắp thế
giới, ý niệm về một đạo diễn tác gia độc đáo dường như đang thoái trào. Ở
Hollywood, các hãng phim lớn như Marvel và Disney coi các đạo diễn từng
đoạt giải Oscar hầu như là có thể hoán đổi. Và ở Trung Quốc, trong hơn
một thế kỷ nay lĩnh vực làm phim trong nước đánh dấu những bước phát
triển bằng sự trỗi dậy của các “thế hệ” đạo diễn kế tiếp, thì giờ đây
thể loại phim và dàn diễn viên mới là những động lực chính dẫn đến thành
công của một bộ phim.
Bất cứ ai thông hiểu lịch sử điện ảnh
Trung Quốc đều biết về sáu thế hệ đạo diễn, bắt đầu từ những người sáng lập
nền điện ảnh Trung Quốc, Trịnh Chính Thu và Chương Thạch Xuyên. Là thế
hệ đầu tiên, họ đã thiết lập nguyên mẫu của điện ảnh Trung Quốc. Sau đó
là thế hệ thứ hai vào những năm 1930 và 1940, bao gồm Thái Sở Sinh, Tôn
Du, Ngô Vĩnh Cương và Viên Mục Chi. Thế hệ thứ ba — đáng chú ý nhất là
Thôi Ngôi, Thành Ấm, Tạ Tấn và Vương Bình — nổi lên sau khi nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949 và dành sự nghiệp của
họ để tuyên truyền tư tưởng.
Đạo diễn và phim nổi bật thế hệ thứ hai
|
Thế hệ thứ tư xuất hiện muộn màng, sau Cách mạng Văn hóa dài một thập
kỷ. Ngô Di Cung, Hoàng Thục Cần và Trương Noãn Hãn, trong số những người
khác, đã tìm cách làm sống lại các khái niệm sáng tạo và ngôn ngữ điện
ảnh trong những năm đầu cải cách kinh tế của Trung Quốc. Những người kế
nhiệm họ, đáng chú ý nhất là Trương Nghệ Mưu và Trần Khải Ca, đã mang
lại sự công nhận toàn cầu cho điện ảnh Trung Quốc. Cuối cùng, thế hệ thứ
sáu, bao gồm Trương Ngọc An, Vương Tiểu Soái, Lâu Diệp và Giả Chương
Kha, đã đột phá đấu trường liên hoan phim quốc tế thập niên 1990 với
những câu chuyện đời thường hơn về cuộc sống thành thị ở một quốc gia đã
thay đổi hoàn toàn.
Ngày nay, Trương Ngọc An đã gần 60. Những
đạo diễn năng động nhất trong số các đạo diễn thế hệ thứ sáu, Giả Chương
Kha và Vương Tiểu Soái, lần lượt ở độ tuổi đầu và giữa năm mươi. Họ đã
là gương mặt của điện ảnh Trung Quốc trên toàn cầu trong gần 30 năm, và
đã chứng minh được họ là một trong những thế hệ điện ảnh Trung Quốc được
ca ngợi nhất trên trường quốc tế. Không có người kế vị xuất hiện rõ
ràng ở đường chân trời, biết đâu họ cũng là thế hệ cuối cùng.
Đạo diễn và phim nổi bật thế hệ thứ ba
|
Thói quen nhóm các đạo diễn theo thế hệ của Trung Quốc tương đối độc
đáo, xuất phát từ bản chất lấy đạo diễn làm trung tâm của điện ảnh Trung
Quốc và lịch sử phức tạp của đất nước này trong thế kỷ 20. Không phải
tuổi đời đánh dấu một thế hệ nhất định; thay vì thế, là những khó khăn
lịch sử tương tự mà họ trải qua và cách họ trải nghiệm cuộc sống song
hành với phương thức biểu đạt của họ.
Vào những năm 1920, thế hệ
đạo diễn đầu tiên đã thành lập Công ty Minh tinh Điện ảnh, nơi sản xuất
những bộ phim đầu tiên của Trung Quốc như
Hỏa thiêu Hồng Liên Tự,
Đề tiếu nhân duyên,
Ca nữ Hồng Mẫu Đơn,
và những thành công thương mại lớn khác của kỷ nguyên phim câm. Những
bộ phim này đã tìm cách tạo ra một ngôn ngữ điện ảnh dân tộc dựa trên
nền văn hóa truyền thống Trung Hoa, thể hiện nỗi thất vọng lớn lao của
giới trí thức cấp tiến thời đại.
Đạo diễn và phim nổi bật thế hệ thứ tư
|
Cuối cùng, những người cấp tiến quyết định tự mình giải quyết vấn đề. Năm 1934, tác phẩm
Ngư quang khúc
của Thái Sở Sinh đã thắng giải danh dự tại Liên hoan phim quốc tế
Moscow. Viết sau nửa thế kỷ, nhà phê bình Ke Ling miêu tả chiến thắng
này “tượng trưng cho một chương mới của điện ảnh Trung Quốc; các bộ phim
cánh tả đã hợp nhất điện ảnh Trung Quốc — hiện đã được định hướng lại —
với phong trào văn hóa mới và đặt nó trên con đường trở thành nghệ
thuật nghiêm túc.”
Thế hệ thứ hai của các đạo diễn Trung Quốc đều
được ca ngợi từ phong trào cánh tả đang lên, và sự nổi tiếng ngày nay
của họ một phần là sản phẩm của việc điện ảnh Trung Quốc loại trừ các
tác phẩm “cánh hữu” phổ biến và những người sáng tạo chúng, gồm cả Mã Từ
Duy Bang, ra khỏi thế hệ thứ hai, mặc dù những phim này thực sự thu hút
lượng khán giả lớn hơn vào những năm 1930 và 1940 so với phim và đạo
diễn cánh tả được ghi nhớ nhiều hơn ngày nay.
Đạo diễn và phim nổi bật thế hệ thứ năm
|
Tuy nhiên, khuynh hướng chính trị của thế hệ thứ hai không giúp ích được
gì cho họ sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Mao Trạch
Đông coi phim là công cụ tuyên truyền thiết yếu, và các đạo diễn kỳ cựu
hoạt động trong những năm 30 và 40 nhanh chóng bị gạt ra ngoài lề để ưu
ái các nghệ sĩ từng sống với Mao thời chiến ở Diên An hoặc ở các khu
vực khác do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát. Trong cuốn
Introduction to the History of Contemporary Chinese Film Art (1949-1966) [
Giới thiệu lịch sử nghệ thuật điện ảnh đương đại Trung Quốc (1949-1966)],
Meng Liye, sử gia điện ảnh sống qua thời kỳ xã hội chủ nghĩa, đã viết
như sau về thế hệ đạo diễn thứ ba: “Họ tự xem mình trước hết và
quan trọng nhất là những nhà cách mạng. Không có nhóm nghệ
sĩ nào khác thực hành ý chí của các nhà lãnh đạo và đảng cầm quyền một
cách kiên cường như các đạo diễn Trung Quốc những năm 1950 và 1960.”
Cách
mạng Văn hóa đã dẫn đến khoảng cách dài giữa thế hệ thứ ba và thứ tư;
khi cuối cùng thế hệ thứ tư xuất hiện vào cuối những năm 1970, được miêu
tả là “xuân muộn”. Vào thời điểm các đạo diễn thế hệ thứ tư được tự do
chỉ đạo các bộ phim một cách độc lập, hầu hết đều đã gần đến tuổi trung
niên, và thế hệ thứ năm đã nối gót họ.
Đạo diễn và phim nổi bật thế hệ thứ sáu
|
Cả thời gian và cơ hội đều khan hiếm đối với thế hệ thứ tư, nhưng không
nên bỏ qua sản lượng của họ. Sự bùng nổ sáng tạo của họ trùng hợp với
thời kỳ chuyển tiếp của xã hội Trung Quốc, và tác phẩm của họ miêu tả
chân thực sự thức tỉnh lại về văn hóa của người Trung Quốc sau những năm
1960 và 1970, trở lại nhân văn sau khi xa lánh các phong trào chính trị
quần chúng và tái cảm nhận điện ảnh. Theo một nghĩa nào đó, họ đã khôi
phục điện ảnh cho các rạp chiếu phim, gỡ bỏ chức năng làm công cụ tư
tưởng và tập trung vào những câu chuyện nhỏ trong thời đại có nhiều thay
đổi lớn. Họ đặc biệt quan tâm trẻ em — từ lâu đã vắng bóng trên màn ảnh
Trung Quốc — như phép ẩn dụ cho sự dồn nén tình cảm của cả một quốc
gia.
Được biết đến với cái tên “bầy sói con”, thế hệ thứ năm mất
rất ít thời gian để bù đắp cho những năm tháng họ “gửi gắm” tuổi trẻ ở
vùng nông thôn của Mao. “Bi kịch của một cá nhân không còn có thể gói
gọn tất cả những gì chúng tôi cảm thấy, và chúng tôi hy vọng rằng những
vết thương đó sẽ nở rộ những ý tưởng thúc đẩy đất nước,” Trần Khải Ca
viết về
Hoàng thổ địa của mình. Các chủ đề câu chuyện, hình ảnh
và hoa mỹ của nhóm này khác biệt rõ rệt so với các đạo diễn Trung Quốc
trước đó. Để phá vỡ truyền thống bi tình của điện ảnh Trung Quốc, họ đã
chuyển bố cục, màu sắc và âm thanh định hình cách kể chuyện mới về Trung
Hoa cổ đại, đồng thời hưởng lợi từ bầu không khí cải cách, mở cửa và
trao đổi với nước ngoài rộng rãi hơn, đã đưa phim Trung Quốc trở lại sân
khấu điện ảnh quốc tế một cách thành công.
Đạo diễn và phim nổi bật thế hậu-hệ thứ sáu
|
Nhưng những vết nứt trong mô hình thế hệ bắt đầu lộ ra vào thời điểm thế
hệ thứ sáu xuất hiện. Ngay từ năm 1995, nhà phê bình Li Sheng đã viết
trong số ra mắt của
Tạp chí Học viện Điện ảnh Bắc Kinh rằng thế
hệ thứ sáu mới nổi lúc đó có “phong cách khác nhau và không có quan
điểm nghệ thuật chung. Điểm giống nhau duy nhất là phim của họ đều liên
quan đến giới trẻ thành thị và họ có chung nền tảng trong trường điện
ảnh.”
Li Sheng tiếp tục lập luận rằng đặc điểm “thế hệ” là không
phù hợp do chất lượng, số lượng và phong cách sáng tạo khác nhau trong
tác phẩm của các đạo diễn có liên quan. Nhưng danh nghĩa "thế hệ thứ
sáu" vẫn tồn tại, chủ yếu là do thế hệ thứ năm thống trị dư luận và giới
phê bình đã quá lâu và điện ảnh Trung Quốc đang khao khát dòng máu mới.
Trong
khi đó, mặc dù ngày càng có nhiều đạo diễn Trung Quốc tham gia các liên
hoan phim quốc tế, ngành công nghiệp điện ảnh của nước này đang gặp khó
khăn. Từ giữa những năm 1990, đạo diễn cùng thế hệ thứ năm với Trần
Khải Ca là Trương Nghệ Mưu bắt đầu lập luận rằng, trong một thế giới
toàn cầu hóa, chỉ một số ít các bộ phim được nhà nước bao cấp và phim
của đạo diễn tác gia thắng giải từ các liên hoan phim và nghệ thuật là
không đủ; đất nước này cần một ngành công nghiệp điện ảnh thương mại khả
thi có khả năng sản xuất phim bom tấn lẫn phim nghệ thuật. Thị trường
điện ảnh Trung Quốc lúc đó đang trong tình trạng bấp bênh, với lượng
khán giả giảm từ 3,4 tỉ vào thời điểm đỉnh cao của thập niên 1980 xuống
còn 450 triệu vào thời điểm đầu thập niên 90. Tổng hợp vấn đề, một trong
những điều kiện để Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm
1999 là mở cửa thị trường điện ảnh của nước này cho Hollywood, đẩy một
ngành công nghiệp vốn đang quay cuồng vào tình trạng hoảng loạn.
Một cảnh trong phim Phù Dung trấn năm 1987, do Tạ Tấn đạo diễn
|
Đáp lại, Cục Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình Trung Quốc đã công bố
các quy định mới về thị trường hóa sản xuất phim và cho phép các công ty
tư nhân tham gia và cạnh tranh với các hãng phim nhà nước trên một sân
chơi bình đẳng. Điều đó đã khơi mào cho sự chuyển đổi lớn nhất của điện
ảnh Trung Quốc kể từ năm 1949, từ lý tưởng chính trị sang thị trường và
từ một ngành công nghiệp điện ảnh do nhà nước quản lý thành một ngành
công nghiệp điện ảnh thương mại hóa.
Các hãng phim thuộc sở hữu
nhà nước từng độc quyền trong ngành công nghiệp này đã chứng kiến họ mất
đi quyền kiểm soát, và số tiền thưởng khổng lồ đã thu hút nhiều nhà
biên kịch, quay phim, diễn viên, giảng viên trường điện ảnh và đạo diễn
truyền hình tham gia. Thiết bị kỹ thuật số cũng làm giảm đáng kể chi phí
sản xuất phim, cho phép những người trẻ yêu thích điện ảnh thực hiện ước
mơ làm đạo diễn với kinh phí tiết kiệm. Cũng tham gia vào cơn sốt tìm
vàng còn có các nhà làm phim Hồng Kông đã đến Đại lục và những người mới
với kinh nghiệm ở nước ngoài.
Cảnh phim Anh hùng năm 2002 của đạo diễn Trương Nghệ Mưu
|
Các thế hệ phần lớn đồng nhất về đặc điểm trong quá khứ không còn nữa.
Sản xuất phim đã được dân chủ hóa và hệ thống sản xuất lấy đạo diễn làm
trung tâm đã nhường chỗ cho hệ thống tập trung vào thể loại và ngôi sao.
Những đạo diễn tác gia như Trương Luật, Doãn Lệ Xuyên và Pema Tseden
vẫn đang tìm kiếm thành công, nhưng tuổi tác, xuất thân và kỹ thuật của
họ đều không dễ dàng phân loại.
Dịch: © Yên Khuê @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Sixth Tone