Kỳ 3: Tiếp thị điện ảnh lên ngôi và đối tượng khán giả được định đoạt là "những người không chịu lớn"*
>> Kỳ 1: Khi điện ảnh lại cần tới ngoại lệ mới thành công thì...?
>> Kỳ 2: Kỷ nguyên Top Gun
>> Kỳ cuối: Liệu khán giả có từ bỏ rạp phim để chờ bản DVD?
Không ngừng nhắm vào mục tiêu thương mại hơn là có phim hay thì chẳng
trách tại sao quá nhiều phim tệ hại vậy mà các hãng phim cứ ném vào
chúng ta như thể những phim đó đi ngược từ các poster mà ra chứ không
phải đi lên từ một ý tưởng hay. Các nhà tiếp thị tôn sùng ý niệm về
thương hiệu, vì một thương hiệu nghĩa là ai đó, ở đâu đó, đã từng mua
cái thứ bây giờ họ đang tìm cách bán. The Magic 8 Ball (đúng, bi kịch
quá, sắp có phim Magic 8 Ball) là một thương hiệu vì là một món đồ chơi.
Pirates of the Caribbean là một thương hiệu vì là một chuyến đi. Harry
Potter là thương hiệu vì là một bộ sách. Jonah Hex là thương hiệu vì là
truyện tranh. (Ở đây có một sai lầm trong việc bắt các nhà tiếp thị chịu
trách nhiệm đủ thứ: Đôi khi họ quên mất không hỏi xem liệu phim đó có
thương hiệu tốt không.) Phim nhiều phần là thương hiệu. Phim
làm lại là thương hiệu. Nói rộng ra thì, các ngôi sao điện ảnh được xem
là thương hiệu; đây là thời mà những tạp chí như Premiere tìm
cách định lượng sự tăng hay giảm sức hút của các diễn viên theo thời
gian. Với ngành công nghiệp này, việc chọn đúng diễn viên ngôi sao xem
ra là cách tối thượng để phòng ngừa thất bại.
Nhưng sau chừng ba
bốn trăm trường hợp không hiệu quả với cách làm như vậy, nỗi ám ảnh sức
mạnh siêu sao của Hollywood bắt đầu giảm sút. Mấy năm vừa qua, một luật
vận hành mới đã được thừa nhận: Bản thân bộ phim phải là một thương
hiệu. Và vì, theo định nghĩa, một thương hiệu là quen thuộc, một thương
hiệu là không lập dị, cũng theo định nghĩa. Nỗi sợ phim không thương
hiệu có lúc gần như lố bịch, như đã từng xảy ra hồi năm 2006 khi The Departed của
Martin Scorsese được khắp trong ngành xem là một thành công "bất ngờ",
chủ yếu vì cái việc phim bị xếp loại R và nội dung xuất xứ từ nguồn xa
lạ. Phim này có thể không là một thương hiệu, nhưng như nhà sản xuất bộ
phim Graham King nói, "Mạo hiểm ư? Với cái tay mà tôi cho là đạo diễn
tài ba nhất còn sống và Nicholson, Matt Damon, Wahlberg, và Leo sao? Nếu
bạn làm việc ở hãng phim và bạn không thể bán được cuốn phim đó, thì
đừng nên ở trong nghề này nữa."
The Departed của Martin Scorsese được khắp trong ngành xem là một thành công "bất ngờ"
Inception không phải là một thương hiệu, đó là lý do vì sao không ai có căn cơ về tiếp thị lại muốn tìm kiếm một Inception tiếp theo — dù oái oăm là, hãng phim nào ở Hollywood cũng hăm hở bật đèn xanh cho Inception 2. Ngược lại, người đã mở đường cho Fast Five tiến tới, cái phần năm tuyệt đối không cần thiết trong đó Vin Diesel–Paul Walker viết bộ sử thi The Fast and the Furious,
giờ đang ngủ ngon, thậm chí có lẽ là ngay tại bàn làm việc của ông ta.
Vào ngày 10/6/2011, ông sẽ ban bố cho hàng ngàn điểm chiếu một sản phẩm
mà người ta mua đã bốn lần rồi. Làm sao phim này trượt được chứ?
Tất
nhiên, phim có thể trượt; phim không thể trượt mà vẫn trượt suốt đấy
thôi. Nhưng khi một phim mà ai cũng đồng ý coi như là được bán trước rồi
lại thất bại, thì bản thân cái ý tưởng trì trệ đó lại không bao giờ bị
kết tội. Vì quan niệm cho rằng sự quen thuộc không chừng hiệu quả ở một
phim, đã thống trị Hollywood, sẽ hủy diệt hệ sinh thái làm phim đến nỗi
có lẽ phải làm lại hết từ đầu. Cho người ta một thứ họ không biết họ có
muốn không hóa ra là công thức để có nỗi khiếp sợ nhiều hơn mức
Hollywood kham nổi.
Và trong khi cái đặc tính dây chuyền lắp ráp
nhạt nhẽo đó không ảnh hưởng đến một nhúm nhỏ những bộ phim Mỹ tuyệt vời
ra rạp hàng năm, dứt khoát nó đang tàn phá những thứ thường thường bậc
trung — lớp lớp những bộ phim trước đây tập trung vào mức chất lượng
đâu đó thấp hơn, chẳng hạn, There Will Be Blood nhưng rõ hơn là Why Did I Get Married Too
của Tyler Perry? Đây là loại phim mà nói về nó bạn có thể bảo, "Chẳng
có gì đặc sắc, nhưng cũng được" — đã chịu đựng nhiều nhất từ sự lãnh
đạm/lơ là của Hollywood đối với tính chất cơ bản trong phát triển câu
chuyện. Nếu những phim như The Bounty Hunter và Prince of Persia: The Sands of Time tạo nên định nghĩa mới cho từ "cũng được" thì, nói xin lỗi nhé, hệ thống này là thối tha.
Ấy
vậy mà, chỉnh sửa điều đó không là ưu tiên hiện thời của ai cả — vì
việc sửa chữa đòi hỏi một sự thừa nhận đã có gì hư hại. Đó đâu phải là
chuyện của tiếp thị; tiếp thị là để xem coi cái gì đang bán được thì bán
nhiều thêm. Thời buổi bây giờ, mặt hàng phổ biến nhất của Hollywood là
khái niệm mùa hè vô tận. Hồi giữa thập niên 80, mùa phim hè đúng là dành
cho mùa hè: Bắt đầu tung phim ra vào tuần cuối cùng của tháng 5 và hết
dần vào giữa tháng 8. Còn tám tháng dành cho những phim không có sử dụng
công nghệ CGI. Nhưng thập niên vừa qua đã chứng kiến một mức độ “nhão”
lịch khác: Trong năm 2010, "mùa hè" được cho là bắt đầu vào ngày 30/4,
với phiên bản làm lại A Nightmare on Elm Street, và vẫn còn khá mạnh đến tận ngày 10/9, với Resident Evil: Afterlife
công chiếu. Và vì mùa phim hè được ưa chuộng như vậy, sao không có thêm
một mùa phim hè nữa chứ? Trong tư duy của Hollywood, cái mà chúng ta
gọi là "mùa xuân" bây giờ thành “Tiền mùa hè" rồi, chăng đèn kết hoa với
những phim như Clash of the Titans được thiết kế nhằm làm dịu
cơn khát phim bom tấn của bạn ngay từ những tuần lễ đầu tiên của mùa
xuân. Và một khi đã tới cỡ đó rồi thì, xem Lễ tạ ơn là "Đông Hè" cũng
đâu có gì quá đáng. Rồi Giáng sinh — mà ngay năm ngoái giới thiệu một
phim Narnia mới cùng bản tái khởi động Yogi Bear, Gulliver's Travels, và Tron — coi như trở thành "Đông-Hè II: Sự trở lại của Đông-Hè!"
Clash of the Titans được thiết kế nhằm làm dịu cơn khát phim bom tấn của bạn
ngay từ những tuần lễ đầu tiên của mùa xuân
Sự lên ngôi của các nhà tiếp thị còn làm nảy sinh ra nỗi ám ảnh về cơ
cấu dân số. Như bất kỳ ai ở Hollywood cũng sẽ bảo bạn rằng, công chúng
xem phim Mỹ được chia theo hai cách: giới tính và độ tuổi. Giới tính thì
rõ rồi; còn tuổi thì chia ở vạch trên-dưới 25 tuổi. Tất nhiên giám đốc
hãng phim nào mà chẳng mơ tìm được một cuốn phim như Avatar chạm
đủ "bốn góc đồ thị" khán giả: nam và nữ, trẻ và không còn trẻ. Nhưng
nếu phim có thể được làm hấp dẫn tới thế, thì hai thậm chí một phần tư
bộ phim cũng đủ là một đề nghị ăn chắc.
Tuy nhiên, ở Hollywood,
không phải tất cả đối tượng khán giả được đối xử như nhau. Nếu bạn là
phụ nữ, thì coi như thua rồi, vì trong tư duy của các hãng phim phụ nữ
được xem là thị trường ngách, ngoại trừ khi nào Sandra Bullock đọc một
kịch bản hoặc Nicholas Sparks viết một cuốn tiểu thuyết, nói chung là
không đáng bỏ thời gian để tính tới. Và nếu bạn sinh trước năm 1985...
à, rất buồn phải thông báo với bạn rằng trong nhãn quan của Hollywood,
bạn là một trong những “khọm già” theo cách gọi của bọn trẻ trên
Internet. Bạn tưởng mình cũng là một trong số bọn trẻ con trên Internet
chứ gì. Với các hãng phim thì không, bạn càng gần (hoặc càng xa ra) cái
ngày sinh nhật thứ 30, thì bạn càng có khuynh hướng phát triển những thứ
như là “gu” thưởng thức và sự sáng suốt, thế thì chắc hết hơi mới bán
được cho bạn một phim.
Chỉ còn một góc tư đồ thị khán giả — nam
dưới 25 — mà đa số hãng phim đều nhắm vào, cái tư duy cho rằng thành
phần khán giả này sẽ ăn mọi thứ được dọn ra trước mặt họ miễn là được
pha chế đủ chất kích thích. Bởi vậy cho nên, khi bạn xem xét những thể
loại phim hiện đang thống trị Hollywood — hành động, hài thô tục, chuyển
thể từ trò chơi điện tử/đồ chơi/truyện tranh, kinh dị, và, thêm một
liều Red Bull 3-D vào tất cả hạng mục đó — tất cả đều nhắm vào cùng một
thứ rối rắm dặm thêm, thiếu trí nhớ ngắn hạn, hormon kích thích dễ dàng.
Trong một thế giới do tiếp thị thống trị, không tránh khỏi việc thành
phần khán giả nào là thành phần khán giả quan trọng nhất sẽ chính là
thành phần khán giả sẵn lòng mua sản phẩm nhất dù có tầm thường đi nữa.
Nhà
biên kịch đồng thời cũng là nhà sản xuất Vince Gilligan nói, "Các hãng
phim bảo, 'Thời buổi bây giờ còn ai khác hơn các cậu trai trẻ sẵn lòng
đi xem phim chứ, cho nên chúng ta phải làm phim cho họ thôi.' Và nếu bạn
làm phim chỉ để dành cho các cậu con trai, chẳng ai khác còn muốn đi
xem. Vậy là Hollywood trở thành giống như trong tiểu thuyết Logan's Run: Bạn được 30 tuổi là họ giết bạn chết."
Tin
vui là cái lý thuyết bốn phần đồ thị của tiếp thị giờ đây đang thoái
trào. Tin xấu là chuyện này mở đường cho thứ còn tồi tệ hơn — một cách
phân loại mới bao gồm mọi lứa tuổi và cả hai phái: loại khán giả "không
chịu lớn". Mới hồi năm 1993, ba thể loại phim hướng tới đối tượng trẻ em
— phim hoạt hình, phim dựa theo truyện tranh, và phim dựa theo các cuốn
sách dành cho trẻ em — chỉ chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trong tổng thể thị
trường điện ảnh; năm đó các phim này thu về khoảng 400 triệu USD (hầu
hết nhờ phim Mrs. Doubtfire) và chỉ chiếm một vị trí trong bảng
xếp hạng 10 phim có doanh thu hàng đầu của năm. Năm 2010, cũng ba thể
loại phim đó đem về hơn 3 tỉ USD và đến tháng 12 chiếm tám trong số chín
phim có doanh thu cao.
Cho phép tôi nhận định: Tệ quá. Chúng ta
thảy đều công nhận rằng thế giới điện ảnh Mỹ là một nơi phong phú hơn vì
có Pixar và rằng những bộ phim chuyển thể truyện tranh hay nhất, từ Iron Man đến The Dark Knight,
là khá tuyệt vời, nhưng mức độ dòng phim dành cho trẻ em thuộc địa hóa
toàn bộ ngành công nghiệp điện ảnh đang vượt quá mức tàn phá. Thường xảy
ra hơn là không, tập hợp những bộ phim “cưa sừng làm nghé” này đang
nuôi dưỡng một thành phần khán giả — chưa kể là một thế hệ những nhà làm
phim và nhà điều hành hãng phim tương lai — những người sẽ lớn lên
trong tin tưởng rằng phim ảnh nhắm vào khán giả trưởng thành nên được
xem là nghệ thuật cổ và lập dị. Cũng như sách. Hay kịch.
Mức độ dòng phim dành cho trẻ em thuộc địa hóa toàn bộ ngành công nghiệp điện ảnh
đang vượt quá mức tàn phá
Ở mức độ nào đó, kiểu suy nghĩ này quả là bến cuối cùng của quá trình
cách ly khỏi nhịp điệu phát triển của xã hội dài nhiều thập kỷ của chính
ý niệm về khát vọng sáng tạo do các hãng phim đưa ra. Nếu hồi thập niên
1970 làm ra một bộ phim độc đáo là mục tiêu trọng tâm của những người
điều hành các hãng phim, thì đến thập niên 1980, mục tiêu đó đã chuyển
thành làm phim độc đáo để phát hành vào dịp cuối năm, cho mùa giải
Oscar. Sang thập niên 1990, khi làm phim độc lập bắt đầu bùng nổ ở Mỹ, ý
niệm về một phim "hay", như nhà phê bình Manohla Dargis của tờ New York Times
chỉ ra, rốt cuộc trở thành thị trường ngách có thể giao ra bên ngoài
làm — đầu tiên là những ông trùm một tay dựng cơ đồ như Harvey Weinstein
và rồi tới các phân ban của chính các hãng phim. "Vài năm trước đã có
lúc," Schamus nói, "khi các hãng phim bảo, 'Này, cả đám công ty chuyên
ngành đó xem ra chiếm hết hàng ghế đầu ở lễ trao giải Oscar rồi, vậy nếu
họ làm được, thì chúng ta cũng làm được — chúng ta chỉ việc quăng tiền
cho họ thôi!' Và kết quả là, về mặt tài chính, đi từ thảm họa vừa vừa
đến thảm họa lố bịch."
Sự bùng nổ đó đã phá sản. Vô số chi nhánh
chuyên trách trực thuộc hãng phim vung tay quá trán một cách điên rồ,
thường là vào những nội dung kém cỏi (và tất cả chúng ta đều đồng ý rằng
một phim nhỏ quá dở thì cũng khốn khổ y chang một phim lớn quá dở). Họ
xâm nhập thị trường, thải rác rưởi vào những công ty độc lập nhỏ hơn;
rồi họ đổ sụm và để lại một chiến trường làm phim ngổn ngang. "Và với
tất cả những ai đã mất nhiều năm tìm cách làm phim với những công ty giờ
đây đã tiêu đời đó, chỉ còn một chỗ để làm mà được đối xử tôn trọng và
đánh giá công bằng thôi," Rudin nói. "Đó là HBO."
Vậy là đài
truyền hình cáp trở thành người chăm nom thị trường ngách dành cho phim
"hay"; những đơn vị như HBO, Showtime, và AMC đã phát hiện ra một mô
hình kinh doanh mà với mô hình đó họ có thể thỏa mãn khẩu vị sâu sắc của
công chúng đối với phim chính kịch dài. Những loạt phim truyền hình của
họ không cần phải thu hút một lượng khán giả khổng lồ; và kết quả là,
bất cứ biên kịch, đạo diễn, và nhà sản xuất có tham vọng nào lâu nay vẫn
đưa thứ tốt nhất của mình đến các hãng phim giờ chuyển sang màn ảnh
nhỏ, vì một lẽ không ai ở đài truyền hình cáp lại bảo họ "Chúng tôi
không kể chuyện nữa."
"Điều đáng buồn là," Michael Lombardo giám
đốc chương trình HBO nói, "một thế giới đã đóng lại với một nhóm những
người kể chuyện nghiêm túc — và có những câu chuyện nên được kể trong
khuôn khổ hai tiếng đồng hồ. Thành công của chúng tôi như là niềm an ủi
trong một câu chuyện do kinh tế chi phối bởi các hãng phim đang chật vật
để tồn tại trong thị trường quốc tế phức tạp. Nhưng người thua thiệt
sau cùng là những người tìm kiếm để thưởng thức những tác phẩm điện ảnh
nghiêm túc."
Dịch: © Yên Khuê @Quaivatdienanh.com
Nguồn: GQ
* Phân kỳ và tít từng kỳ bởi Yên Khuê @Quaivatdienanh