Nhân vật & Sự kiện

Denis Villeneuve - Người đưa hết đam mê sa mạc vào Dune: Hành tinh cát

10/12/2021

Đầu mùa hè năm nay, ngồi trong một rạp chiếu phim ở London để xem bộ phim cực kỳ được mong đợi nhưng bị đại dịch trì hoãn của Denis Villeneuve chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng kinh điển Dune của Frank Herbert, bất giác người viết rơi nước mắt.

Đã không đến rạp chiếu phim trong gần hai năm và người viết quên mất xem chiếu bóng là như thế nào. Quên ánh sáng bên trong một khán phòng lớn luôn mang lại cảm giác bụi mù và mệt mỏi đêm khuya, bất kể đó là lúc nào trong ngày. Quên mùi đặc biệt của bỏng ngô và nước giặt thảm, gợi lại ký ức tuổi thơ khi lướt ngón tay qua tĩnh điện trên mặt kính tivi vừa bật; quên tầm vóc chóng mặt của không gian và màn ảnh.

Khi bộ phim bắt đầu, người nghe thấy tiếng đập của một nhịp tim đối ngược với nhịp tim của chính mình, bùng nổ bất hòa khi nhạc nền của Hans Zimmer len vào, và sau đó ánh sáng sa mạc khắc nghiệt đốt cháy đáy mắt và người viết ở vào một nơi hoàn toàn khác, chứng kiến cuộc nổi dậy trên một hành tinh xa xôi bị đàn áp tàn bạo — và sau một lúc, người viết nhận ra mình cứ mãi thì thầm trong hơi thở, “Ôi, Chúa ơi.”

Sau buổi chiếu, người viết đi trên những con phố vắng vẻ, đầu óc đầy sa mạc và những cây chà là cháy, những con tàu rộng lớn, những con giun cát quái dị và cảm giác kinh ngạc thích thú rằng những hình ảnh trong sách đã được hiện thực hóa một cách tinh vi. Josh Brolin, đóng vai chiến binh Gurney Halleck trong phim, đã đưa một người bạn hâm mộ Dune suốt đời đến một buổi chiếu ở New York, và lúc hết phim, người bạn đó bắt đầu hét lên: “Đúng là thế! Đúng vậy đó! Đúng là những gì tôi đã thấy! Những gì tôi đã thấy khi còn nhỏ!”

Trong những thảo luận đầu tiên với các biên kịch, tất cả đều rõ ràng rằng Villeneuve muốn giới thiệu trước về những người phụ nữ trong câu chuyện, đặc biệt là Lady Jessica (Rebecca Ferguson, giữa)

Với sự tham gia của các ngôi sao như Timothée Chalamet, Oscar Isaac, Rebecca Ferguson, Josh Brolin, Stellan Starsgard, Zendaya và Javier Bardem, Dune đã mất ba năm rưỡi sản xuất và tiêu tốn khoảng 165 triệu USD. Bỏ qua màn hình xanh của hầu hết các bộ phim khoa học giả tưởng, Villeneuve quay ở sa mạc Jordan và Các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất, ở đó các diễn viên đổ mồ hôi trong trang phục cao su dưới cái nóng 120 độ.

Khi Warner Brothers thông báo rằng Dune sẽ được phát trực tuyến trên HBO Max cùng ngày phát hành rạp ở Mỹ, Villeneuve đã viết một phản hồi gay gắt trên Variety lên án hành động của họ. Sau này, ông nói với người viết: “Đó là để giúp tôi tỉnh táo hơn. Tôi rất tức giận, cay đắng và bị thương,” ông nói về sự lựa chọn của hãng phim. Ông hiểu những áp lực của đại dịch, nhưng ông đã làm Dune thành bức thư tình gửi cho màn ảnh rộng. Đối với Villeneuve, quyết định phát trực tuyến bộ phim dường như có dấu hiệu của những mối đe dọa đối với chính truyền thống xinê, điều mà ông coi là đáp ứng nhu cầu từ ngàn xưa của con người muốn cùng nhau nghe kể chuyện.

Tất cả những điều này khiến người viết lo lắng khi ngồi xuống bàn bếp cho cuộc phỏng vấn đầu tiên với nhà đạo diễn, được thực hiện qua Zoom vì đại dịch. Người viết biết Villeneuve là một nhân vật lý tưởng mãnh liệt, và trông đợi gặp một đạo diễn tác gia không thân thiện. Nhưng khi khuôn mặt ông xuất hiện trên màn hình máy tính xách tay, người viết bị ấn tượng bởi vẻ tử tế và hơi u sầu. Râu tóc rối bù vì đóng cửa giãn cách, ông mặc cái áo sơ mi hở cổ sẫm màu và đeo tai nghe. Nói giọng Québec nhẹ nhàng, ông xin lỗi vì tiếng Anh của mình và ban đầu toát ra thần thái lịch sự thận trọng. Sau đó, người viết phát hiện hóa ra ông cũng lo lắng về cuộc phỏng vấn như mình. Khi người viếc giơ chiếc cốc “Chiến tranh giữa các vì sao” lên làm bằng chứng thành tích khoa học giả tưởng của mình, ông nhướng mày qua cặp kính nửa gọng và cười toe toét.

Denis Villeneuve

Một câu chuyện ngụ ngôn về môi trường, một câu chuyện ngụ ngôn về nền kinh tế dầu mỏ, một sự phê phán chủ nghĩa thực dân, một lời cảnh báo cho việc đặt niềm tin của bạn vào những nhà lãnh đạo có uy tín, Dune kể câu chuyện Paul Atreides, chàng thiếu niên quý tộc đến một vùng đất xa xôi; tham gia bộ tộc sa mạc, người Fremen; trở thành đấng cứu thế của họ; và lãnh đạo họ nổi dậy chống lại những kẻ thực dân áp bức họ. Câu chuyện của Paul gợi nhớ Lawrence of Arabia (Herbert chịu ảnh hưởng của T.E. Lawrence) và Lawrence xuất hiện trong tâm trí người viết lúc xem Dune. Mỗi bộ phim là một sử thi địa chính trị xoay quanh nhân vật, đều được quay ở Wadi Rum của Jordan và mỗi phim là một tụng ca điện ảnh đẹp ngoạn mục dành cho sa mạc.

Phim của Villeneuve thường thăm lại cảnh sa mạc: cánh đồng muối ở Utah trong phim đầu tiên Un 32 Août Sur Terre (August 32nd on Earth); sa mạc Trung Đông của Incendies; sa mạc Chihuahuan cho Sicario; những bãi cát dưới sương mù hậu tận thế bao phủ Las Vegas trong Blade Runner 2049. Khi ông nói cho người viết biết thôi thúc làm Dune chỉ là cái cớ để ông quay lại sâu vào sa mạc, ông đã cười. Người viết học được rằng tiếng cười của Villeneuve thường mào đầu cho những tuyên bố về việc tìm kiếm sự trung thực. Villeneuve yêu sa mạc vì cảm giác cô lập mà chúng mang lại, ông giải thích, cách chúng “phản ánh nội tâm của bạn, và càng đi sâu vào sa mạc, bạn càng đi sâu vào chính mình. Kiểu nội tâm đó luôn có tác động u uất rất sâu sắc đối với tôi,” ông nói thêm. “Trong sa mạc, lạ thay tôi lại cảm thấy như ở nhà.” Ông đã vạch ra sự tương quan với Paul Atreides, do Chalamet đóng trong Dune. “Lần đầu tiên Paul tiếp xúc với sa mạc,” Villeneuve giải thích, “cảm giác quen thuộc đến lạ lùng. Đó là khoảnh khắc khiến tôi vô cùng xúc động. Thực tế anh ấy đang ở trong một khung cảnh hoàn toàn xa lạ, nhưng anh cảm thấy như ở nhà.”

Làm Dune chỉ là cái cớ để Villeneuve quay lại sâu vào sa mạc

Villeneuve có biệt tài làm cho người ngoài hành tinh trông quen thuộc. Làm việc với các nhà quay phim nổi tiếng như Roger Deakins, Greig Fraser và Bradford Young, ông có khả năng phi thường biến khoa học giả tưởng thành hiện thực sống động. Khi xem bộ phim năm 2016 Arrival của ông, trong đó nhà ngôn ngữ học do Amy Adams đóng học cách giao tiếp với những người ngoài hành tinh đến thăm, những con tàu vũ trụ nguyên khối lơ lửng trên những thung lũng tươi tốt và sương mù bao phủ là điều không tưởng song chẳng hiểu sao lại hoàn toàn hợp lý. Arrival cũng có thể được hiểu là câu chuyện ngụ ngôn tinh tế về sức mạnh của điện ảnh: Những con người mong manh trong không gian tối tăm đối mặt với một màn hình sáng phía sau có những hình dạng kỳ lạ di chuyển và nói bằng một ngôn ngữ hình ảnh, một khi đã được giải mã, sẽ biến đổi thế giới.

“Ông ấy đang ở trong không gian Christopher Nolan kiêu kỳ độc đáo đó,” Timothée Chalamet nói. “Không gian của các đạo diễn có thể làm phim ở cấp độ khổng lồ nhưng không làm mất đi bất kỳ thứ gì — tôi không nói phẩm chất độc lập, mà là bất cứ gì, phẩm chất đạo diễn tác gia.” Từ cuộc khám phá tàn khốc về sang chấn tâm lý, danh tính và di sản của bạo lực trong Incendies (2010), đến nỗi sợ bị giam cầm trong Enemy (2013), trong đó nhân vật của Jake Gyllenhaal chiến đấu với những thứ có vẻ là tiềm thức của anh trong con người của chính anh nhân đôi, đến khám phá đáng buồn phiền về quyền lực của đặc quyền ngoại giao trong Sicario (2015) và suy ngẫm về sự khách quan hóa và ngộ nhận trong Blade Runner 2049, phim của Villeneuve chú ý đến nhân vật và địa điểm và luôn có nội dung sâu sắc, bất kể quy mô hoành tráng đến mức nào. Ông di chuyển dễ dàng giữa các thể loại — ông nói, tình yêu với xinê đại chúng Mỹ đã khiến ông xóa bỏ những ranh giới này trong tâm trí. Ông ghét thói hợm hĩnh, ghét đóng hộp. Ông thở dài khi nói đến từ “thể loại”.

Bỏ qua màn hình xanh của hầu hết các bộ phim khoa học giả tưởng, Villeneuve quay ở sa mạc Jordan và Các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất, ở đó các diễn viên đổ mồ hôi trong trang phục cao su dưới cái nóng 120 độ

Làm Dune gặp cơ man là thách thức, đặc biệt cuốn tiểu thuyết khét tiếng là nghĩa địa của những hy vọng điện ảnh — đến mức cụm từ “The Curse of Dune” ám ảnh internet. David Lynch đã rất không hài lòng với bản chuyển thể năm 1984 của mình, có sự tham gia của Kyle MacLachlan và một Sting khét tiếng, đến mức chối bỏ nó; các kế hoạch chi tiết của Alejandro Jodorowsky cho một phiên bản kéo dài hơn 10 giờ với sự góp mặt của Orson Welles, Mick Jagger và Salvador Dalí, không ngạc nhiên khi chúng chưa bao giờ bắt đầu. (“Tôi không chắc liệu anh ấy thích chuyển thể Dune hơn là làm một bộ phim tuyệt vời của Jodorowsky không,” Villeneuve trầm ngâm. “Tôi không biết liệu anh ấy có thực sự hứng thú với Dune không. Còn Lynch, tôi nghĩ cũng hơi giống như vậy, bạn biết không?”)

Villeneuve không nghĩ ông là người duy nhất có thể làm Dune thỏa đáng, nhưng với ông, ông nói, đó là “về cuốn sách, cuốn sách, cuốn sách.” Ông cũng muốn làm cho bộ phim của mình càng thực tế càng tốt, tránh những điều siêu nhiên. Paul Atreides có thể có tầm nhìn về tương lai, điều này càng được đề cao khi anh tiếp xúc với hàng hóa có giá trị nhất của Arrakis, một hợp chất khai thác từ cát sa mạc được gọi là gia vị, nhưng anh là sinh vật phi thường chứ không phải “phù thủy”, Villeneuve nói. “Anh ấy chỉ là một người rất nhạy cảm với chất gây ảo giác.”

Villeneuve và Zendaya trên phim trường Dune ở Jordan vào tháng 4 năm 2019

Villeneuve 14 tuổi lúc lần đầu nhìn thấy cuốn sách, một ấn bản có bìa bắt mắt trong thư viện nhỏ gần trường của ông ở Trois-Rivières, Quebec: khuôn mặt của một người đàn ông da ngăm với đôi mắt xanh xuyên thấu trên nền sa mạc xa xôi. Ông nói cuốn sách thật đẹp, nhấc lên một cuốn có bìa giống y hệt từ bàn làm việc. Ông đã giữ cuốn sách bao năm và đang sử dụng nó để viết bộ phim thứ hai (Dune là một cuốn tiểu thuyết phức tạp nổi tiếng và Villeneuve chỉ đồng ý chuyển thể nếu được chia thành hai phim). Thậm chí bây giờ nhìn cuốn sách cũng gợi lên những cảm xúc giống như ông cảm thấy hồi đó: “bí ẩn, cô lập, đơn độc.” Villeneuve đã mơ ước được làm Dune từ khi còn là một thiếu niên; ông đã cố gắng làm cho bộ phim của mình “gần với giấc mơ nhất có thể, và điều đó rất khó khăn, bởi vì giấc mơ của một thiếu niên rất độc tài. Tôi không ngờ rằng việc lấy lòng anh chàng đó lại khó đến vậy!”

Trong cuộc trò chuyện, Villeneuve rất nhiệt tình, cực kỳ hài hước và trung thực đến mức dễ bị tổn thương. Chẳng mấy chốc cảm giác giống như đang nói chuyện với một người bạn cũ, đến nỗi người viết bắt đầu kể cho ông nghe chuyện cuộc sống của chính mình. Khi hỏi Villeneuve về thời thơ ấu của ông, người viết xin lỗi và giải thích rằng mình mất kiên nhẫn khi mọi người hỏi về tuổi thơ của chính mình. Nhưng sau đó Villeneuve đã cho người viết hiểu những ký ức ban đầu có thể định hình hoạt động sáng tạo như thế nào. Ông kể, khi còn nhỏ ông cùng mẹ ngồi xem chương trình truyền hình thiếu nhi có tên Sol et Gobelet. Phim kinh phí thấp, phông nền màu đen. “Hai chú hề cùng nhau phiêu lưu trong một thế giới tưởng tượng. Tôi biết sâu thẳm trong tâm hồn mình rằng tôi mang ơn hai chàng trai này rất nhiều.” Ông nói chương trình truyền hình đó đã thay đổi cuộc đời ông, rằng bạn có thể nhận ra những ảnh hưởng điện ảnh của ông là kết hợp đan xen giữa những chú hề này và tác phẩm của các nhà làm phim khác. Mức độ gợi ý, tính sân khấu, cách trình chiếu ở nhà hát thông thường, sự tối giản của chúng — thậm chí còn có mối liên hệ trực tiếp giữa hư vô đen tối của phông nền chương trình truyền hình đó với bối cảnh sa mạc đỏ của Roger Deakins trong Blade Runner 2049: “Hễ chỗ nào trống, tôi đặt cát lên sàn, và Roger lấp đầy không gian bằng một loại khói, một loại khói cụ thể, vì vậy nó tạo ra sự vô cùng. Và tôi nhớ mình đã có khoảng thời gian tuyệt vời nhất, và đó là cảm giác vô cùng, và căng thẳng mà sự trống trải tạo ra.”

Nhà thiết kế sản xuất Dune, Patrice Vermette (trái) cho biết họ đã sử dụng Google Earth để tìm kiếm địa điểm phù hợp cho các cảnh trên hành tinh Arrakis

Villeneuve lớn lên ở Gentilly, một ngôi làng nhỏ gần sông St. Lawrence, nơi có chân trời rộng mở mang đến cho ông khả năng mơ mộng. Tình yêu khoa học giả tưởng của ông bắt đầu từ một món quà từ dì Huguette lúc 7 tuổi: ba thùng các-tông đầy truyện tranh khoa học giả tưởng của Pháp, Métal Hurlant, Pilote và những thế giới khác, những thế giới xa xôi do Moebius, Enki mang đến. Bilal và Jean-Claude Mézières, Philippe Druillet. Chẳng bao lâu sau, ông sẽ viết những câu chuyện khoa học giả tưởng trên máy đánh chữ của ông mình — chúng không tốt chút nào, ông nói với người viết, nghiến nát giấy và “Bốp!” một tiếng bực tức.

Tình yêu thiên nhiên sâu sắc, khao khát được tiếp xúc với thiên nhiên của Villeneuve đến từ bà ngoại. Bà là hình mẫu của sự nuôi dưỡng — ông mỉm cười hoài niệm hình ảnh bà làm vườn:“bé bự giữa vườn hoa!” Cả hai người bà của Villeneuve đều là “những nhân vật mạnh mẽ. Và rất trái ngược. Một người là nhân vật opera, người còn lại là người bà nhân từ, ấm áp, thật tuyệt vời. Tôi nhận ra mình nhận được rất nhiều từ họ, nhưng có rất nhiều — rất nhiều chứng loạn thần kinh.” Trong những thảo luận đầu tiên với các biên kịch Eric Roth và Jon Spaihts, tất cả đều rõ ràng rằng Villeneuve muốn giới thiệu trước về những người phụ nữ trong câu chuyện, đặc biệt là Lady Jessica, “một nhân vật rất phức tạp — cô ấy có nhiều kế hoạch.” Là mẹ của Paul, bạn đời của công tước và là thành viên của Bene Gesserit — quyền lực quan trọng nhất trong truyện — cô là “kiến trúc sư, nhà tư tưởng, lý do tại sao cuốn tiểu thuyết này tồn tại,” Villeneuve nói với người viết, thêm: “Cô ấy là một nhà giáo. Cô ấy là người hướng dẫn, cô ấy là người truyền cảm hứng.”

Villeneuve và Rebecca Ferguson trên trường quay Dune

Bene Gesserit không phải là những người định hình lịch sử nhân từ. Paul Atreides là một phần trong chương trình nhân giống của họ, vai trò cứu thế của anh ở Arrakis là kết quả của việc họ gieo mầm những câu chuyện thần thoại hàng nghìn năm trước đó trên hành tinh này. Như Villeneuve thấy, anh ta là một nạn nhân của chủ nghĩa thực dân tôn giáo, lúc nào cũng phải nghe theo lời tổ tiên. Người viết nghĩ đến Paul khi Villeneuve nói về niềm đam mê của chính mình với hành trang ký ức thế hệ. Villeneuve không coi mình chỉ là sản phẩm của ông cố ông sơ; họ có trong ông. “Tôi có bản thể của họ. Tôi có nỗi sợ hãi của họ. Tôi có sức nặng của sự tồn tại của họ.”

Ông dành phần lớn thời thơ ấu trên băng ghế ngồi xem những đứa trẻ khác chơi khúc côn cầu. Ông không đổ lỗi cho huấn luyện viên. “Có lẽ tôi đã là,” ông nói vẻ thích thú, “một trong 10 vận động viên khúc côn cầu tệ nhất mọi thời đại ở Canada. Tôi đã, kiểu như, không biết gì trò chơi đó, bạn biết không?” Những ngày tuyệt vời nhất là những ngày mưa lớn, khi không thể chơi thể thao và ông có thể rúc vào căn phòng đầy sách ở nhà. Đóng cửa lại và dành cả ngày để đọc tiểu thuyết khoa học giả tưởng quả là một thiên đường thuần khiết.

Một ngày nọ ở trường, Villeneuve bị vỗ vào vai. “Thấy anh chàng kia không?” một học sinh khác thông báo. “Anh ấy cũng điên như bạn. Anh ấy muốn làm Chiến tranh giữa các vì sao trong tầng hầm nhà mình vào mùa hè tới. Tôi nghĩ bạn nên gặp anh ấy.” Chẳng bao lâu sau, Villeneuve trở thành bạn thân của một đứa trẻ tên là Nicolas Kadima. Lúc những cậu bé cùng tuổi khác đang hớt cỏ và khám phá các cô gái và bóng đá, thì Villeneuve và Kadima “không biết gì cả. Chúng tôi giống như những thầy tu điện ảnh.” Họ dành cả đêm để xem Eisenstein và Godard, bị ám ảnh bởi Spielberg, Ridley Scott và Kubrick. Họ không làm phim (“Chúng tôi quá lười biếng cho việc đó”), nhưng họ viết kịch bản phim, vẽ bảng phân cảnh — Villeneuve vẫn còn một số thứ mà Kadima đã vẽ cho Dune — và họ mơ mộng.

Villeneuve chỉ đạo Timothée Chalamet (phải) trên trường quay. Chalamet miêu tả ông là “một trong những tâm hồn đẹp nhất”

“Mơ mộng dữ dội,” Villeneuve nhớ lại một cách trìu mến. “Có thứ gì ở đó, nói sao nhỉ, thuần khiết và đẹp đẽ thế nào ấy.” Ngay sau khi bạn cầm máy quay, bạn học được sự khiêm tốn. “Nhưng trước thời điểm đó, bạn nghĩ mình là Kubrick tiếp theo.” Villeneuve và Kadima đã ngừng đến nhà thờ, ông nói với người viết, hy vọng sẽ bị rút phép thông công, nhưng “sẵn sàng hiến máu của mình cho các vị thần điện ảnh, như Coppola, như Spielberg, Scorsese.” (Ông thừa nhận bây giờ, khi gặp một số thần tượng của mình, ông rất xúc động. Villeneuve trở lại như một đứa trẻ, ông giải thích. “Tôi có thể bật khóc, đôi khi. Lần đầu tiên gặp Spielberg, tôi đã khóc — ý tôi là, không phải trước mặt anh ấy,” ông nhanh chóng nói thêm. “Nhưng tôi đã khóc.”)

Villeneuve được kỳ vọng sẽ trở thành một nhà sinh vật học, nhưng quyết định theo đuổi sở thích trong lĩnh vực điện ảnh. “Cần phải thoát ra,” ông nói, “và tôi sẽ chán nản nếu không thoát ra được, đó là sự thật.” Sau khi theo học ngành truyền thông và điện ảnh tại Đại học Quebec ở Montreal và giành chiến thắng trong cuộc thi làm phim của Radio-Canada, Villeneuve bắt đầu làm việc tại nơi mà ông miêu tả là “phòng thí nghiệm tuyệt đẹp” của truyền thống phim tài liệu người Québec. Người viết hỏi Villeneuve cảm thấy thế nào khi rời xa cội nguồn văn hóa và sáng tạo của mình? “Đó là một vết thương lớn,” ông nói, nghiêm túc. “Tôi cảm thấy rạn nứt trong chính mình.” Nhưng ông cảm thấy phải ra đi. Ông nói, cho đến những năm 1960, việc làm phim ở Canada tập trung vào dạng phim tài liệu, và giả tưởng tương đối ít được biết đến. “Có lúc, tôi nhận ra rằng — và là rất kiêu ngạo,” ông thừa nhận — “ở đây không ai có thể dạy tôi bất cứ điều gì, tôi phải đi ra ngoài.”

Việc Villeneuve khăng khăng muốn địa điểm trong thế giới thực cho Dune khiến ông phải dành nhiều ngày trên trực thăng bay khảo sát sa mạc

Hôm nay, Villeneuve nói, sống ở Montreal nhưng làm việc ở Hollywood, hầu như ngày nào ông cũng được hỏi: “Này, Denis? Khi nào anh trở lại để làm phim ở đây? Chúng tôi rất mong được xem một bộ phim bằng tiếng Pháp.” Nhưng, ông nói, “vấn đề là tôi cảm thấy mình đang ở nhà.” Chính những bộ phim Mỹ đã khiến Villeneuve cảm động hồi nhỏ, đến nỗi được đặt biệt danh là Spielberg ở trường. Mãi sau này, ông mới bắt đầu quan tâm đến điện ảnh châu Âu. (Villeneuve phát hiện ra Làn sóng mới của Pháp khi còn là một thiếu niên sau khi xem François Truffaut trong Close Encounters of the Third Kind của Spielberg.)

Với bộ phim điện ảnh đầu tiên của mình, Villeneuve thú nhận: “Tôi đã cố gắng gần gũi hơn với cội nguồn của mình. Ảnh hưởng của tôi đến từ châu Âu nhiều hơn. Nhưng đã có lúc tôi nói: Hãy dừng việc tào lao đó lại! Đó không phải là tôi! Và khi tôi nhận ra điều đó, thật là tự do hết sức.” Khoảnh khắc ông hiểu rằng trong thâm tâm ông là một đạo diễn người Mỹ “là khởi đầu của hạnh phúc thuần khiết. Và đó là nơi tôi bắt đầu có niềm vui với điện ảnh. Tôi nghĩ tôi đã bắt đầu làm những bộ phim hay hơn. Đó là nơi tôi bắt đầu trở thành một đạo diễn thực thụ, tôi nghĩ vậy.”

“Tôi không được sợ hãi. Nỗi sợ hãi là kẻ giết chết tâm trí” là câu thoại nổi tiếng nhất trong Dune. Nó xuất hiện trên vô số áp phích cổ động, đã được những người thợ xăm xăm lên nhiều cánh tay không đếm xuể. Nó là một phần kinh nguyện của Đẳng cấp Bene Gesserit. Bởi vì sợ hãi sẽ xóa tan suy nghĩ, kinh cầu nguyện nói, phải làm chủ và vứt bỏ sợ hãi.

Dune có sự phù hợp đương đại rõ ràng: Đây là một sử thi sinh thái cảnh báo chống lại giáo điều tôn giáo và chủ nghĩa đế quốc, đồng thời khắc họa một dân tộc đau khổ dưới sự chiếm đóng của thực dân, một bộ phim mà nhân vật chính buộc phải thích nghi với thực tế mới không thì chết

Nhưng đối với Villeneuve, sợ hãi là một cảm xúc chung chung, và điện ảnh là thứ mà ông đã sử dụng và tiếp tục sử dụng để đánh bại nó. Ông xem điện ảnh — không chỉ là xem phim, mà còn là hành động tạo ra chúng — là lực đẩy ông ra khỏi vỏ bọc của mình, đưa ông tiếp xúc với những người khác. Nếu không có điện ảnh, Villeneuve nói với người viết, có lẽ ông đã dễ dàng mắc kẹt trong một cái nhà tồi tàn cửa khóa chặt, sợ hãi thế giới. Ông nói, “Điện ảnh mang lại cho tôi niềm an ủi.” Trán ông nhíu lại. “An ủi, hoặc ... Tôi không biết từ nào thích hợp.” Trông ông có vẻ lo lắng. “An ủi? Chính xác thì nó có nghĩa là gì?” Ông tìm kiếm trên máy tính của mình. Tất nhiên đó là từ đúng.

Đối với Villeneuve, rủi ro và nguy hiểm là bản chất của tạo hóa. Một trong những bộ phim yêu thích của ông là phim tài liệu năm 1956 có tên Le Mystère Picasso của nhà làm phim người Pháp Henri-Georges Clouzot. “Như một quả bom trong tâm hồn tôi,” Villeneuve nói với người viết. Trong phim, một Picasso cởi trần, khi đó đang ở độ tuổi ngoài 70, vẽ trên màn hình được quay từ phía sau để nhà họa sĩ vô hình, và tất cả những gì bạn có thể thấy là tác phẩm đang tồn tại, từng dòng, từng nét vẽ, nét vẽ bằng nét cọ. “Ông ấy có thể vẽ một bức tranh và sau đó thêm gì đó, rồi thêm gì đó, và thêm gì đó, rồi nói, Đó là một tác phẩm [vớ vẩn] — và chúng ta đang nói về ba tuần làm việc — và rồi ông phá hủy bức tranh, và vẽ lại, 20 lần.” Xem phim khiến ông vô cùng xúc động. “Bởi vì nó cho thấy sáng tạo là một hành động dễ bị tổn thương, con đường dẫn đến thành công của bạn rất hẹp và bạn phải để bản thân thử nghiệm.”

Nhà quay phim Greig Fraser (trái) đã đến dự án ngay sau khi làm The Mandalorian

Việc Villeneuve khăng khăng muốn địa điểm trong thế giới thực cho Dune khiến ông phải dành nhiều ngày trên trực thăng bay khảo sát sa mạc. “Khi bạn bay lên trong không trung, có những thứ tự bộc lộ ra, chẳng hạn một số núi đôi trông giống như hai cụ bà, mà tôi cảm thấy rất gắn kết với bản chất của bộ phim, và họ trở thành nhân vật đối với tôi,” ông giải thích. Nhà quay phim Greig Fraser, đã đến dự án ngay sau khi làm The Mandalorian, phim bộ truyền hình Chiến tranh giữa các vì sao được quay gần như hoàn toàn trong trường quay ảo, trong đó máy tính hiển thị phong cảnh chuyển động liền mạch trên màn hình phía sau diễn viên. Quy trình này cho đạo diễn quyền kiểm soát tuyệt đối môi trường — “giải quyết vấn đề [chen vào], như đám mây che phủ, ai đó đặt nhà vệ sinh di động sai chỗ,” Fraser nói. Khi Fraser đề nghị một số công nghệ này với Villeneuve, ông đã từ chối. Nhà đạo diễn hình ảnh nói Villeneuve cần quay bộ phim trong sa mạc thực sự, “để cho tôi tỉnh táo tinh thần, để có thể truyền cảm hứng cho bản thân tìm lại cảm giác mà tôi đang tìm kiếm về sự cô lập, về xem xét nội tâm.”

Villeneuve muốn sự chân thực, chứ không muốn kiểm soát. Ông biết rằng địa điểm thực cũng sẽ thúc đẩy sáng tạo của nhà quay phim và các diễn viên. Dựng cảnh ở Budapest như một môi trường bao la và các căn phòng để thực tế vật lý của chúng có thể khơi dậy ý tưởng, đưa vào màn trình diễn của các diễn viên. “Bạn không thể có được điều đó với màn hình xanh,” ông nói. “Không thể. Không phải cho tôi. Có thể với một số người được, nhưng tôi thì không.” Thông thường, khi ghi hình tại điểm quay, Greig Fraser nói với người viết, mọi người luôn có kế hoạch dự phòng, nhỡ khi. Nhưng với Denis, ông nói, triết lý hoàn toàn ngược lại. “Chà, ở Abu Dhabi, đến từ đỉnh cao — và Denis là vậy đó — tất cả chúng tôi đều nói: ‘Không. Chúng tôi sẽ không làm. Về cơ bản chúng ta sẽ bước trên cầu tàu, và sẽ không có lựa chọn nào cho bản thân.’ Khi tôi nói không có lựa chọn, à thì, trước hết chúng tôi có kịch bản tuyệt hay, diễn viên tuyệt đỉnh, trong những trang phục tuyệt đẹp, ở một địa điểm quay tuyệt vời — ý tôi là, không phải chúng tôi không có bất kỳ lựa chọn nào. Chúng tôi đã loại bỏ những kế hoạch dự phòng vô nghĩa.”

Josh Brolin và Timothée Chalamet trong Dune

Nhà thiết kế sản xuất Dune, Patrice Vermette cho biết họ đã sử dụng Google Earth để tìm kiếm địa điểm phù hợp cho các cảnh trên hành tinh Arrakis: một sa mạc với các thành bằng đá mà người Fremen sẽ sử dụng làm nơi trú ẩn tránh cái nóng khắc nghiệt. Họ đã tìm thấy những ứng viên đầy triển vọng ở Iran, Chad, Mauritania, Libya. “Khá gian nan,” anh thừa nhận. Họ kết Wadi Rum, “giống như một triển lãm thương mại các tường thành đá,” nhưng nó thiếu đụn cát. Nhóm nghiên cứu đã thu thập mẫu cát từ Jordan trong chai nước để chúng có thể phù hợp với màu sắc của cát ở địa điểm khác, và kết quả là ở những cồn cát mênh mông của sa mạc Rub’ Al Khali ở Abu Dhabi.

Cái sự khăng khăng muốn quay phim trong môi trường thực tế của Villeneuve được hình thành bởi công việc ban đầu của ông với tư cách là một nhà làm phim tài liệu. Vào đầu những năm 1990, ông đến Đảo Ellesmere trong một êkíp nhỏ cùng với nhà làm phim Pierre Perrault người Québéc để quay bộ phim tài liệu lịch sử tự nhiên thơ mộng, có nhan đề Cornouailles, nói về loài bò xạ hương bảo vệ lãnh thổ của chúng. “Đó là về những người Canada gốc Pháp và người Mỹ,” ông hóm hỉnh nói. Ông đã ở đó mang theo giá ba chân và nấu súp, nhưng trải nghiệm này có tác dụng thay đổi. “Tôi đã thấy mọi thứ ở đó,” ông nói, “mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại trong đời. Và sẽ không bao giờ trải qua nữa. Để đi bộ bên trong một sông băng, những điều rất khó để mô tả — nhưng nó giống như đang ở trên một hành tinh khác.” Giống như sa mạc, lãnh nguyên có tác động tâm lý sâu sắc đến ông, truyền cho ông cảm giác khiêm tốn, cảm giác ông đang “nhìn thấy trái đất không có lớp vỏ. Như thể bạn là lõi, bạn tiếp xúc với thời gian... với vô hạn và thời gian.”

Villeneuve và Zendaya trên trường quay. Ông truyền cảm hứng về sự tận tâm mãnh liệt cho những người làm việc với ông

Quay Cornouailles đã dạy Villeneuve nắm bắt được những nét đặc sắc của một địa điểm trong đời thực, “cảnh quan trước mặt bạn mỗi ngày đều hoàn toàn khác biệt, tùy theo ánh sáng và bản chất của các yếu tố” — và theo nghĩa hiện sinh hơn, lãnh nguyên đã cho thấy chúng ta nhỏ bé và tầm thường như thế nào, một trải nghiệm quen thuộc với nhiều trong số những người liên quan đến Dune.

Patrice Vermette đã nói khi bước vào Wadi Rum, “có một thứ đập vào mắt bạn — bạn phải hạ mình trước cảnh quan hùng vĩ. Đó là một trải nghiệm tuyệt vời về mặt tinh thần chỉ có ở đó.” Sharon Duncan-Brewster, người đóng vai Liet-Kynes, nhà hành tinh học của đế quốc, nhận thấy cảnh quay ảnh hưởng đến tâm lý cũng như sinh lý: “Ban đầu thì rất dữ dội, nhưng tất nhiên cơ thể sẽ thích nghi thôi. Và một khi bạn hòa hợp với nó — và tôi nghĩ tuyệt vời làm sao vì chính xác câu chuyện này kể về điều đó — là khi bạn nói, ‘Nóng quá, và không có cách nào không đổ mồ hôi, đúng không? Và hãy uống nước, và nhớ đi tiểu khi có thể,’” cô nói, cô bắt đầu thấy những cảnh quan này thật kỳ diệu, bí ẩn và gây hoang mang.

Quay phim ở những địa điểm khắc nghiệt này đã rèn luyện tinh thần cộng đồng mạnh mẽ nơi dàn diễn viên, đoàn làm phim và êkíp sản xuất. Chalamet giải thích: “Nếu chúng tôi quay ở những bãi đá mờ ở Jordan, bạn sẽ thấy Denis nhặt pin máy ảnh. Ai làm việc nấy và giúp đỡ nhau.” Duncan-Brewster đồng ý, chỉ ra rằng đối với Villeneuve, “không quan trọng đó là ai: Miễn là bạn ở trong đội, bạn là đồng đội.”

Sharon Duncan-Brewster, người đóng vai Liet-Kynes, nhà hành tinh học của đế quốc, nhận thấy cảnh quay ảnh hưởng đến tâm lý cũng như sinh lý

Villeneuve truyền cảm hứng về sự tận tâm mãnh liệt cho những người làm việc với ông. “Một con người đáng kinh ngạc,” Josh Brolin nói. Timothée Chalamet miêu tả ông là “một trong những tâm hồn đẹp nhất”. “Một nhà ảo thuật,” Rebecca Ferguson nói. “Thiên tài.” Biên kịch Jon Spaihts miêu tả ông là người “hào phóng, khiêm tốn và quyến rũ và có mọi thứ bạn có thể muốn ở một đối tác sáng tạo.” Người duy nhất nói khác là nhà thiết kế sản xuất, Patrice Villette, một trong những người bạn và cộng tác viên lâu năm của Villeneuve. “Ông ấy là quái vật,” anh ta nghiêm nghị nói rồi bật cười vì sự lố bịch của câu nói này.

Villeneuve giải thích, trọng tâm của Dune là sự cần thiết thích nghi: cách tiến hóa đòi hỏi tiếp xúc với những người khác. Paul trưởng thành nhờ thích nghi với môi trường sa mạc thù địch của Arrakis, giải phóng bản thân thoát khỏi quá khứ bằng cách tham gia vào cộng đồng Fremen và học hỏi từ họ. “Đối với tôi đó là một điều tuyệt đẹp, nghe có vẻ ngây ngô và đơn giản,” ông nói, “nhưng cần có những người khác thì ta mới phát triển.” Villeneuve bị cuốn hút bởi không gian tích điện được tạo ra khi một nền văn hóa này chạm trán với một nền văn hóa khác, và đáp lại thì cả hai bên đều phải thay đổi tính cách và bản sắc.

Nhưng không chỉ bản sắc được thỏa hiệp trong không gian đó, mà còn là nơi mà sự sáng tạo được hiện thực hóa. Sáng tạo nghệ thuật được sinh ra trong không gian giữa con người và cảnh vật, giữa bản thân và người khác, giữa những tâm trí tham gia vào cùng một dự án. Bất kể bộ phim có thể là giấc mơ riêng của đạo diễn đến đâu, đối với Villeneuve niềm vui điện ảnh sâu sắc nhất là điều kỳ diệu đến từ sự hợp tác. Đối với Villeneuve, quá trình này là thể chất, bản năng và trực giác. Khi đại dịch xảy ra khiến ông không thể làm việc cùng phòng với biên tập viên lâu năm của mình, Joe Walker, ông thấy làm việc ảo thật vất vả.

Josh Brolin, bạn bè thân thiết với Villeneuve, người nửa đêm 3 giờ sáng bị nhà đạo diễn dựng dậy gọi sang trao đổi về nhân vật của anh

“Đâu có giống nhau,” ông giữ lập trường. “Giống như chơi nhạc.” Trong khi chỉnh sửa, bạn cần “cảm nhận người kia, cảm nhận phản ứng của anh ấy, cảm nhận phản ứng của chính bạn. Có rất nhiều ý tưởng mà Joe và tôi cùng có, tôi không biết là ý tưởng của anh ấy hay ý tưởng của tôi — nó đến từ việc cả hai chúng tôi đều ở chung một chỗ. Đó là điều tôi yêu thích nhất về điện ảnh.”

Josh Brolin đã nói với vẻ thích thú thích thú về hậu quả của nhu cầu hiện diện thể chất của Villeneuve trong khi cộng tác. “Chúng tôi là bạn bè và thân thiết, nhưng khi bạn nhận được cuộc gọi lúc 3 giờ sáng và anh ấy bảo: ‘Bạn ơi, tôi vừa có một giấc mơ. Tôi có một giấc mơ. ... Tôi đã có ý tưởng hoàn toàn mới cho Gurney, và tôi nghĩ cậu nên đến đây và chúng ta nói chuyện.” Khi Brolin trả lời, “Không, không, không, cứ nói qua điện thoại đi!” thì anh kể rằng Villeneuve “bảo, ‘Không được, cậu cần phải qua đây.’ Tôi nói: ‘Không đâu! Cứ nói qua điện thoại đi! Bây giờ là nửa đêm, tôi không muốn qua chỗ anh.’ Và anh ấy nói: ‘Không, không, không! Không hiệu quả đâu!’” Cuối cùng, Brolin phải qua chỗ Villeneuve và họ nói chuyện và viết cùng nhau. Brolin nói, với bất kỳ ai khác, kiểu hành xử này không tự nhiên, nhưng với Villeneuve thì không. “Đối với tôi Denis là một trong những người mà bạn biết anh ta thực sự là một con cừu đen. Giống như, nếu không vậy thì, điều gì sẽ xảy ra, anh ấy sẽ làm gì? Nếu không có khả năng vận dụng trí tưởng tượng, sự nhạy cảm của anh ấy, tính dễ tổn thương của anh ấy, bạn biết đấy, tôi không biết, bạn biết không? Anh ấy chỉ là. ... Anh ấy bay bổng, Denis bay bổng. Và theo một cách mà tôi thấy thật đẹp, thật cuốn hút và thật dịu dàng, mặc dù anh có quát mắng tôi và tôi đã mắng lại anh ấy, điều đó không quan trọng. Điều đó không quan trọng bởi vì nó đến từ một tình cảm thực sự.”

Vào một buổi chiều, người viết kể với Villeneuve về việc, khi còn nhỏ, người viết đã phát triển nỗi ám ảnh với các nhà máy điện hạt nhân tại Sizewell ở Suffolk, Anh, có thể nhìn thấy từ thị trấn ven biển mà cả nhà đi nghỉ. Người viết đã bị khuất phục bởi sức mạnh không thể tưởng tượng và sự nguy hiểm mà nó nắm giữ, và nói với Villeneuve rằng những con tàu khổng lồ trong Arrival Dune đã mang lại một cảm giác giống nhau kỳ lạ.

“Có một nỗi kinh hoàng mà theo tiềm thức tôi đang đưa lên màn ảnh,” Villeneuve nhớ lại những lời trấn an của cha mình rằng nhà máy điện đó an toàn

Người viết biết Villeneuve lớn lên gần một nhà máy như vậy và tự hỏi liệu có mối liên hệ nào không. Villeneuve bật cười ngạc nhiên và thích thú. “Anh đã nói ra rồi, và tôi cảm thấy chạm điện trong não — tôi chưa bao giờ liên tưởng chuyện này,” ông nói. Nhưng, vâng, ông tiếp tục, có mối liên hệ giữa những gì ông cảm nhận ở hai tòa tháp bê tông của nhà máy và những con tàu được đóng cho Arrival Dune. “Có một nỗi kinh hoàng mà theo tiềm thức tôi đang đưa lên màn ảnh.” Ông nhớ lại những lời trấn an của cha mình rằng nhà máy điện đó an toàn, nhưng luôn cảm thấy cha đang diễn ra cái vẻ tin rằng tất cả năng lượng sẽ được giữ ở đó một cách an toàn. “Tôi sinh ra ở nơi có hai cái tháp,” ông giải thích, “tháp nhà thờ và nhà máy điện hạt nhân.” Mối liên hệ giữa rủi ro, nỗi sợ hãi, thế hệ, sự sáng tạo, sự hủy diệt và ký ức đã cũ và sâu thẳm trong Villeneuve. Bất chấp mối đe dọa về tận thế hạt nhân, “chúng tôi vô tội,” Villeneuve nói về thời thơ ấu của mình ở Gentilly. “Chúng tôi đã hy vọng.” Như nhà hoạt động Mariame Kaba đã nói, hy vọng là một nguyên tắc và rất khó duy trì. Để giữ hy vọng tương lai tồn tại, chúng ta phải coi đó là điều vẫn còn chưa chắc chắn, phải tin rằng hành động chung, tập thể của con người có thể ngăn chặn thảm họa.

Dune có sự phù hợp đương đại rõ ràng: Đây là một sử thi sinh thái cảnh báo chống lại giáo điều tôn giáo và chủ nghĩa đế quốc, đồng thời khắc họa một dân tộc đau khổ dưới sự chiếm đóng của thực dân, một bộ phim mà nhân vật chính buộc phải thích nghi với thực tế mới không thì chết. Khi Villeneuve miêu tả Dune là “câu chuyện của tuổi mới lớn”, có cảm giác không chỉ là câu chuyện về tuổi trưởng thành của Paul Atreides. Cụm từ này nói một cách tổng quát hơn về nhu cầu của chúng ta là phải thích nghi và tiến hóa, khắc phục cách chúng ta đã luôn sống, để sinh tồn. Điều kỳ lạ nhất xảy ra sau khi người viết xem Dune vào mùa hè này: Nó đi vào một phần ký ức khác với những bộ phim thường làm. Nó giống như một tin tức. Những hình ảnh từ nó đã bất ngờ trở thành một phần trong cách mà người viết sẽ luôn nhớ về mùa hè và mùa thu năm nay: hình ảnh những con tàu bốc cháy và những bãi cát lấp lánh xen với đám cháy rừng, những di sản khủng khiếp của tội ác thực dân, những cuộc chiến thất bại, tiếng trống đại dịch không ngừng vang lên, những con sóng lòng nhiệt thành tôn giáo và tân tôn giáo được thúc đẩy bởi bất bình đẳng xã hội và kiến ​​thức cơ bản liên tục, đáng sợ rằng khí hậu đang sụp đổ xung quanh chúng ta.

Dune phản ánh thì ít mà khúc xạ thực tế mới nhiều, chói chang bởi bụi và hình bóng sa mạc

Dune luôn là một cuốn tiểu thuyết ngụ ngôn; một trong những mục tiêu chính của khoa học giả tưởng là dựng tấm gương u ám soi vào văn hóa. Nhưng bằng cách nào đó, Dune đã trở thành một phần của thế giới đối với người viết, phản ánh thì ít mà khúc xạ thực tế mới nhiều, chói chang bởi bụi và hình bóng sa mạc.

Dịch: © Hải Đăng @Quaivatdienanh.com
Nguồn: The New York Times