Bất kỳ ai đã sống qua thời kỳ đỉnh cao của kỷ nguyên thuê băng video
thập niên 80 và 90 đều sẽ nhớ rằng lắp đặt hệ thống xem video tại gia
đáng đồng tiền bát gạo – tức là phí thuê – bạn sẽ tìm thấy một khu
chuyên cho phim độc (cult movie).
Thường được một người trông tiệm ốm yếu nhưng mê phim mãnh liệt chăm nom
cẩn thận, khu vực phim độc là một hòn đảo cho những món đồ chơi điện
ảnh “sinh bất phùng thời”, đầy ắp những bộ phim đã bị quên lãng – tức là
bị hắt hủi – thành công trào lưu nhưng đã tìm được một lượng ủng hộ
trung thành trong một nhóm những tín đồ chọn lọc. Những phim hài khiếm
nhã quá quắt như
Pink Flamingos và
Eating Raoul. Những phim kinh dị xoắn não, thường là đẫm máu như
Re-Animator và
I Spit on Your Grave. Những phim giả tưởng kỳ dị như
Dark Star và
Barbarella: Queen of the Galaxy. Và những phim như
Repo Man và
Eraserhead, xác định phân loại hạng mục nào cũng được.
Jane Fonda trong vai Barbarella, trong phim Barbarella: Queen of the Galaxy
|
Định nghĩa về phim độc luôn là một định nghĩa co giãn và có thể áp dụng cho những phim độc lập về phẩm chất hay tầm nhìn — như
This Is Spinal Tap, một phim kinh điển được công nhận, có thể đứng ngay cạnh một
The Beastmaster, một
Conan the Barbarian
quái đản, trên kệ. Nhưng có một điều mọi phim độc đều có là nhiệt
huyết sâu sắc đôi khi phi lý — nếu không trên màn ảnh, thì nhất định là
trong khán giả.
Phim độc có thể bị khán giả bỏ qua lần đầu, nhưng
đòi hỏi được số ít những người đã xem nó chia sẻ – bằng truyền miệng,
chuyền tay, bằng cách lôi ai đó đến trước màn ảnh. Đó là một sự cháy
chậm, không phải pháo sáng, nhưng là một sự cháy hết mình.
Những
tiệm video cũ có hầu như đủ mọi phim giờ đây đã biến mất, tất nhiên,
cùng rất nhiều phim độc mà, trong nhiều thập niên qua, đã thu hút
đám đông ổn định đến với những “phim nửa đêm” – tất cả đều đã bị quét
sạch trong cuộc quá độ đi vào một thế giới hoàn toàn số hóa, đáp ứng
theo yêu cầu. Còn bản thân những bộ phim độc thì sao? Dường như chúng
cũng đang trên bờ vực tuyệt chủng.
Bảng quảng cáo trên cửa vào rạp Rialto ở Pasadena, năm 1999
|
Trong hệ sinh thái văn hóa đại chúng phân mảnh và dậy sóng hơn bao giờ
hết ngày nay, cái đuôi dài của video gia đình từng có thời cho những bộ
phim lập dị cơ hội có kiếp sau vinh quang đã bị rút ngắn đến mức độ biến
mất. Với việc ngay cả những phim bom tấn thương mại mà còn thường xuyên
chật vật công phá qua một mớ hỗn độn bất tận những nội dung giải trí,
thách thức cho phim nhỏ hơn, kỳ quặc hơn hẳn phải là nghiệt hơn.
Thậm chí khi một phim đặc biệt khác thường – chẳng hạn,
The Babadook hay
It Follows
– xoay xở để bắt được sóng lan truyền, thì gần như ngay lập tức sẽ bị
một mẻ mới phim giải trí “phải xem” lướt lên đòi hỏi sự chú ý quá sức
của bạn. Thay vì có đuôi dài, giờ ta có một tập hợp điển hình của chứng
rối loạn tăng động giảm chú ý về văn hóa nan y.
Đạo diễn-biên
kịch Don Coscarelli đã chứng kiến sự thăng trầm của phim độc đến mức gần
cả hành trình sự nghiệp của ông. Theo một cách hết sức thực, cuộc đời
ông được định nghĩa bằng cung đường đó.
Đạo diễn Don Coscarelli, trái, và diễn viên Bruce Campbell năm 2003, khi họ cùng làm Bubba Ho-Tep, phim về một Elvis Presley già nua chiến đấu với xác ướp. Coscarelli nối tiếng nhờ phim Phantasm. Campbell nổi tiếng với Evil Dead bản gốc và các phần tiếp theo
|
Năm 1979, Coscarelli viết và đạo diễn phim kinh dị siêu thực có tựa là
Phantasm,
về một người làm dịch vụ tang lễ nham hiểm biến người chết thành zombie
lùn làm theo mệnh lệnh của hắn – một nội dung độc nếu từng có phim nào
như thế. Khỏi phải nói,
Phantasm trở thành một phim độc thành
công đình đám, cuối cùng đẻ ra bốn phần tiếp theo. Nhưng trong khi một
vài người đồng trang lứa với Coscarelli, như đạo diễn của
Evil Dead
là Sam Raimi, bước vào dòng phim trào lưu thành công, Coscarelli không
bao giờ mảy may dao động với nhãn hiệu nhà làm phim độc. Đến lúc này,
ông mang cái nhãn đó như một dải băng danh dự.
“Nhiều người coi thường nhãn hiệu độc này,” Coscarelli nói. “Nhưng tôi đánh đồng độc với đam mê, mà đam mê thì rất cừ khôi.”
Để
giải thích thêm khái niệm phải công nhận là khó nắm bắt về việc độc
nghĩa là gì với ông, Coscarelli liên hệ đến một người bạn và cũng là
huyền thoại phim độc, ngôi sao của
Evil Dead Bruce Campbell, người đóng
vai Elvis Presley già chiến đấu với xác ướp trong phim hài kinh dị của Coscarelli hồi năm
2002,
Bubba Ho-Tep.
“Cách đây vài năm Bruce bảo tôi anh
ấy có thể đi ngang qua một hàng người mà hết 99 người không biết anh là
ai, nhưng người cuối cùng sẽ són trong quần,” Coscarelli nói. Ông cười
lớn. “Tôi nghĩ câu nói đó gói gọn toàn bộ vấn đề.”
Nhãn cầu kim loại quen thuộc với ‘fan’ của loạt phim kinh dị này quay lại trong Phantasm: Ravager
|
Giờ đây ở tuổi 62, Coscarelli vẫn tìm cách làm phim, trong đó, gần đây nhất, phần năm và là phần cuối cùng của loạt
Phantasm,
Phantasm: Ravager, mà ông sản xuất và đồng biên kịch. (Bản phục chế phim
Phantasm
đầu tiên đã được phát hành Blu-ray, VOD and và một số rạp chọn lọc.)
Nhưng những nguyên lý sản xuất và phân phối đã trở nên quá kinh khủng.
Tác phẩm đạo diễn mới nhất của ông, phim hài-zombie-giả tưởng
John Dies at the End năm 2012, nhận được phê bình hầu hết là tích cực nhưng thu được chỉ 141.951 đôla ở các rạp phát hành hạn chế.
“Khi
nghĩ lại thời VHS và DVD đời đầu, ai cũng có thể làm bất kỳ phim nào và
đưa ra một trong những thị trường phim và được từ 500.000 đến 1 triệu
đôla cho bất cứ phim rác rưởi nào,” ông nói. “Ngày nay đó là cuộc chiến
để hòa vốn.
“Sản xuất hàng loạt đã làm thay đổi mọi thứ,” ông
tiếp tục. “Mọi mô hình xưa cũ về sản xuất nội dung đã biến mất.
Marketing phim từ một mức độ khiêm tốn hơn và chọc thủng – rất khó
khăn.”
Phim hài-zombie-giả tưởng John Dies at the End năm 2012 của Coscarelli được giới phê bình khen ngợi nhưng không thu được bao nhiêu ở phòng vé
|
Thực tế, khi hệ thống hãng phim tái cơ cấu gần như hoàn toàn xoay quanh
phim bom tấn hấp dẫn khán giả đại trà, làm và bán những dự án thuộc loại rủi
ro sáng tạo, có khí chất riêng ngày càng khó, mà trong những năm qua,
đôi khi cũng phát triển được những người ủng hộ. Kết quả là một cuộc di
cư của nhiều biên kịch và đạo diễn sắc sảo hơn chuyển sang vũ đài tương
đối được chào đón hơn là truyền hình và những dịch vụ xem phim như
Netflix và Amazon.
Ở thể loại hài, cũng như thể loại kinh dị,
phim độc có nguy cơ trở thành chuyện của quá khứ. Để tìm phim hài độc
mới nhất thực sự xuất hiện đột ngột và phát triển được một lượng
người theo lớn một cách hữu cơ, có thể bạn sẽ phải đi ngược tuốt trở về
thành công bất ngờ năm 2004 của Jared Hess,
Napoleon Dynamite hay phim hài không dự tính trước
The Room năm 2003.
Phát biểu với
The Times trước khi mở màn bộ phim hài mới đây nhất của anh,
Masterminds,
Hess nhớ lại mình đã ngây mặt ra khi tác phẩm đạo diễn đầu tay của mình về một học sinh trung học lập dị ảo tưởng vĩ đại, quay ở Idaho với kinh
phí cheo leo chưa đến 500.000 đôla, dần dần bùng nổ thành một hiện
tượng.
“Đó là trước khi có Facebook và Twitter, nên Fox
Searchlight đã làm những suất chiếu để truyền miệng cho bộ phim,” Hess
nói. “Họ chiếu ở khắp nơi – không chỉ New York và Los Angeles mà cả
những nơi như Olathe, Kansas – và chiếu miễn phí, rồi họ cho người ta áo
thun có dòng chữ ‘Vote for Pedro’ và một tuýp dưỡng môi Chapstick. Đột
nhiên ai cũng nói về bộ phim trước khi nó được trình chiếu.”
Cảnh phim Napoleon Dynamite của Jared Hess năm 2004
|
Tạo ra kiểu bàn tán xôn xao đó về lý thuyết sẽ còn dễ hơn nữa trong kỷ
nguyên của mạng xã hội, nhưng Twitter và Facebook thể hiện một dàn hợp
âm lộn xộn chối tai tiếng nói của những người phá bĩnh bất cứ cuộc trò
chuyện liền lạc hay ổn định nào. Trong khi đó, với việc tiêu thụ giải
trí kỷ nguyên số trở thành một trải nghiệm cô độc đến thế, thời
của việc chuyền tay cho bạn bè một cuộn băng VHS hay một bản DVD bộ phim
ưa thích để xem, giống như ghi băng cassette các bài hát bạn ưa thích,
đã trở thành ký ức quá xa xôi.
Như Hess thấy, có gì đó cá
nhân hơn và lâu bền hơn về cách mà những niềm đam mê dành cho một phim
cụ thể có thể truyền từ người xem này sang người khác chỉ mới cách đây
một thâp niên.
“Đó là một trải nghiệm thân thiết hơn,” Hess nói.
“Nếu bạn đi xem phim một mình, bạn có cảm giác khám phá. Theo nghĩa nào
đó, bạn làm chủ khám phá của mình.”
Hess tiếp tục làm phim hài
cho màn ảnh rộng nhưng, như nhiều người có sự nhạy cảm thiên
lệch hơn một chút, anh cũng bắt đầu chuyển sang truyền hình và dịch vụ xem
phim theo yêu cầu, nơi mà áp lực phải thu hút khán giả đại trà dứt khoát
là ít hơn và khả năng chịu đựng rủi ro thì cao hơn.
Cảnh trong phim truyền hình The Walking Dead, đưa zombie trở thành ngôi sao
|
“Bạn thấy rất nhiều nhà làm phim đang bị hút về truyền hình và những nơi
như Netflix,” ông nói. “Bạn chỉ cần xác định khán giả tốt hơn một chút.
Bạn có thể làm những thứ ở quy mô nhỏ hơn và phục vụ số khán giả đó.”
Thậm
chí mô hình kinh tế và phân phối đang thay đổi của ngành điện ảnh cũng
đẩy phim độc vào tình thế nguy hiểm, ngay cái nghĩa “độc” cũng thay đổi –
và, theo một cách đầy nghịch lý, trở thành trào lưu.
Truyện
tranh, lãnh địa một thời của ‘fan’ tiểu văn hóa, đã trở thành bánh mì và
bơ của Hollywood. Đám đông tràn ngập thường chật nghẹt Sảnh H của
Comic-Con cho các hội thảo phim điện ảnh và truyền hình thể loại, trong
những năm qua, sẽ được coi là thức thời. Zombie, trước đây là chất liệu
cho phim kinh dị hạng B và tạp chí
Fangoria, giờ là ngôi sao của một trong những chương trình lớn nhất trên truyền hình,
The Walking Dead của AMC.
“Bây
giờ mọi người đã quen xem zombie, và nó không còn, như thể, ‘Ôi, Chúa
ơi, gớm quá, nhìn ruột gan hắn kìa,’” Chela Johnson, phó chủ tịch
marketing của Lionsgate, nói. Hãng này mới phát hành một loạt đĩa
Blu-ray hạng sang, bản hạn chế các phim kinh dị độc của Vestron Video
như
Blood Diner,
Chopping Mall và
Waxwork. “Trước đây, bạn đúng là lập dị – giờ thì là người bình thường khi xem những thứ này.”
Hồi đầu tháng 10, một trong những phim độc nhất của phim độc, phim ca nhạc kinh dị-hài
The Rocky Horror Picture Show
năm 1975, được làm lại thành phim giờ vàng trên kênh Fox. Với những ai
từng tự hào định nghĩa bản thân bằng sự ca ngợi dành cho một hiện tượng
có tính ngầm lật đổ như thế này, xem hàng triệu người khá là dửng dưng
với bản truyền hình
Rocky Horror có thể cảm thấy như thể nhát đinh cuối cùng đóng lên cỗ quan tài của ý niệm “độc”.
“Khi
quảng cáo xen vào, như thể, ‘Úi,’” Johnson cười lớn nói. “Giờ thì chúng
ta phải chia sẻ với khán giả trào lưu.” (Rốt cuộc, tỷ suất người xem
không ấn tượng có thể là niềm an ủi cho những người trung thành với
Rocky Horror kiểu cũ.)
Với
tất cả những điều đã nói trên, bất chấp động lực của ngành điện ảnh và
khẩu vị khán giả đang thay đổi, miễn còn đam mê, sự khác thường và bản
năng tập hợp ở những người cùng chí hướng tiếp tục tồn tại trên đời này,
tuyên bố cái chết của phim độc có lẽ còn quá sớm.
Đáng để nói
tới, Netflix quả có một khu vực dành cho phim độc. Dù khá là hạn chế và
chỉ có vài tuyển tập có tính tranh luận cao, như
The Human Centipede 3,
Sharknado 2: The Second One và
Children of the Corn: Genesis – những chọn lựa có lúc dường như được một thuật toán vi tính nào đó khạc ra chứ không phải là từ người yêu phim sống sít.
Tuy vậy, Coscarelli thấy có lý do để lạc quan, “Có rất nhiều ‘fan’ phim
độc đam mê đang cháy bùng để bộc lộ mình. Bạn có thể dễ dàng quay một
phim điện ảnh bằng iPhone 7. Không chừng sẽ có những dạng khác của phim
độc mà người ta sẽ xem.”
Ông ngừng lại rồi làm một cái nhún vai nhẹ, buồn. “Hoặc là sẽ không.”
Dịch: © Yên Khuê @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Los Angeles Times