Tin tức

14 phim mùa cuối năm 2022 có thể bạn sẽ nghe thiên hạ bàn tán

17/11/2022

Khi lá chuyển màu, còn một dấu hiệu khác nữa cho thấy sự thay mùa: Phim sẽ trở nên hay hơn — hay ít nhất là lớn hơn.

Mùa lễ cuối năm là khi các hãng phim tung ra những hy vọng đoạt giải Oscar — cùng với hai Pinocchio đấu tay đôi, không ai biết lý do tại sao đâu. (Bản chuyển thể người thật đóng có Tom Hanks ra mắt trên Disney+ vào tháng 9 và phim hoạt hình của Guillermo del Toro phát trên Netflix ngày 9 tháng 12. Nhưng khoan đã: Không phải đã có một Pinocchio khác vào dịp Giáng sinh năm 2020 rồi sao? Đúng đấy, đã có.)

Năm nay, phụ nữ đang chiếm vị trí trung tâm trong một số bộ phim, bao gồm She Said, dựa trên câu chuyện thực về vụ việc #MeToo lên báo; Nanny, câu chuyện kinh hoàng về người nhập cư của Nikyatu Jusu; Women Talking, dựa trên các vụ cưỡng hiếp ngoài đời thực trong cộng đồng Mennonite; và phim tiểu sử Whitney Houston I Wanna Dance With Somebody. Ngay cả Black Panther tiếp theo cũng toàn phụ nữ.

Nhưng cũng có một chủ đề khác, chủ đề phim-về-phim năm nay. Từ Bardo (kể về một nhà làm phim trải qua khủng hoảng tuổi trung niên) đến Babylon (lấy bối cảnh Hollywood thuở ban đầu), và từ Empire of Light (tập trung vào những người lao động trong một rạp chiếu phim bên bờ biển nước Anh) đến The Fabelmans (bán tự truyện thời niên thiếu của Steven Spielberg), xuất phẩm của mùa này tập trung vào các nhà làm phim tự soi gương chính mình.

[Coi chừng ngày mở màn có thể thay đổi đấy.]

Bardo: False Chronicle of a Handful of Truths
(Loại R)

Daniel Giménez Cacho trong Bardo: False Chronicle of a Handful of Truths

Diễn viên chính: Daniel Giménez Cacho, Griselda Siciliani, Íker Sánchez Solano, Ximena Lamadrid.

Nhà làm phim người Mexico Alejandro G. Iñárritu, từng bốn lần đoạt giải Oscar, được khen ngợi cực đỉnh ở Hollywood sau khi gây tiếng vang với bộ phim nói tiếng Tây Ban Nha Amores Perros (được đề cử Oscar cho phim nói tiếng nước ngoài hay nhất năm 2001), đã đặt tựa cho tác phẩm của mình theo khái niệm của nhà Phật về ngưỡng giữa cái chết và tái sinh. Khái niệm đó khớp vào câu chuyện xuyên biên giới, bộ phim đầu tiên của nhà đạo diễn được quay ở Mexico từ sau Amores. Bardo xoay quanh Silverio (Cacho), nhà làm phim gốc Mexico, sống ở Los Angeles, đang vật lộn với mâu thuẫn bản sắc dân tộc khi đi về giữa California và Mexico vào đêm trước khi nhận giải thưởng làm phim danh giá.

Điểm thảo luận: Rải rác những ám chỉ đến những tượng đài của văn hóa Mexico — cao quý và thấp hèn, được tôn kính và bị chê bai — như nhà thơ Octavio Paz, rượu mescal,* kỳ nhông sáu sừng Mexico, đấu vật tự do kiểu Mỹ Latinh và nhà chinh phục người Tây Ban Nha Hernán Cortés, kịch bản thường xuyên siêu thực cho Bardo hội ngộ Iñárritu và Nicholás Giacobone, đồng biên kịch với ông trong bộ phim đoạt giải Oscar Birdman or (The Unexpected Virtue of Ignorance).

Có trên Netflix từ ngày 16 tháng 12, tựa Việt: Bardo: Ký sự giả về đôi chút sự thật.

The Menu
(18 tháng 11, loại R, ra rạp ở Việt Nam với tựa Thực đơn bí ẩn)

Từ trái qua: Anya Taylor-Joy, Ralph Fiennes và Nicholas Hoult trong The Menu

Diễn viên chính: Ralph Fiennes, Anya Taylor-Joy, Nicholas Hoult, Hồng Châu.

Fiennes đóng vai một đầu bếp nổi tiếng bất mãn với bữa ăn nhiều món công phu — được phục vụ trên một hòn đảo với giá 1.250 đôla một phần ăn cho 12 khách hàng được lựa chọn cẩn thận — biến thành một tác phẩm nghệ thuật trình diễn chết chóc trong bộ phim châm biếm đen tối đầu tay của nhà làm phim truyền hình kỳ cựu Mark Mylod (Succession). Mặc dù nhuốm màu kinh dị, bộ phim (do Adam McKay và Will Ferrell, cùng những người khác sản xuất) cũng hài hước đến kỳ lạ, giống như Triangle of Sadness gần đây của Ruben Ostlund, xiên xỏ thói tự phụ của giới thượng lưu — một cuộc đảo ngược tình thế không chừng sẽ thành hệ tư tưởng thời đại.

Điểm thảo luận: Fiennes chuẩn bị cho vai diễn của mình bằng cách xem Chef's Table của Netflix và quan sát đầu bếp Dominique Crenn từng được trao sao Michelin, là cố vấn kỹ thuật trường quay, tạo ra những món ăn cầu kỳ trên màn ảnh như cua Dungeness ăn kèm váng sữa chua lên men, tảo diếp khô, umeboshi (mận muối Nhật Bản) và tảo bẹ.

She Said
(18 tháng 11, loại R)

Từ trái qua: Zoe Kazan, Carey Mulligan, Andre Braugher và Patricia Clarkson trong She Said 

Diễn viên chính: Zoe Kazan, Carey Mulligan, Patricia Clarkson, Andre Braugher.

Nối gót những bộ phim ly kỳ-nghề báo dựa trên sự việc có thật như Spotlight The Post, She Said kể chuyện các phóng viên Jodi Kantor và Megan Twohey (Kazan và Mulligan) của tờ New York Times, đã ngoan cường đưa tin vạch trần các cáo buộc quấy rối và tấn công tình dục của Harvey Weinstein. Giống như hai phim vừa nêu — phim đầu đoạt giải Oscar về vụ tờ Boston Globe đưa tin giới tu hành Công giáo lạm dụng tình dục, và phim thứ hai được đề cử Oscar về cuộc chạy đua đăng tải Hồ sơ Lầu Năm Góc của tờ báo này — She Said có vẻ là một sự tôn vinh nghề báo.

Điểm thảo luận: Là phim nói tiếng Anh đầu tay của nhà làm phim người Đức Maria Schrader (I’m Your Man), She Said dựa trên cuốn sách cùng tên của Kantor và Twohey xuất bản năm 2019, trình bày câu chuyện đằng sau bài báo — một trong số đó đã dẫn đến giải thưởng Pulitzer chung cho hai tờ New York TimesNew Yorker.

The Fabelmans
(23 tháng 11, PG-13)

Từ trái qua: Paul Dano, Mateo Zoryan Francis-DeFord và Michelle Williams trong The Fabelmans 

Diễn viên chính: Michelle Williams, Paul Dano, Gabriel LaBelle, Judd Hirsch, Seth Rogen.

Êkíp West Side Story của đạo diễn Steven Spielberg và Tony Kushner tái hợp trong phim bán tự truyện tập trung vào nhân vật hiện thân cho thời niên thiếu của Spielberg, Sammy Fabelman (LaBelle), con của một kỹ sư nghiện công việc (Dano) và bà nội trợ phóng khoáng. (Williams). Những thước phim 8mm do Sammy thực hiện trong The Fabelmans là những thước phim 8mm thực tế Spielberg đã từng làm ở tuổi thiếu niên.

Điểm thảo luận: Đạo diễn đã gọi dự án này, phim thắng Giải Bình chọn của khán giả tại Liên hoan phim quốc tế Toronto năm nay, là dự án “khó khăn” nhất sự nghiệp, miêu tả các cuộc hội ý với Kushner — được thực hiện qua Zoom trong những ngày đầu đại dịch — như một hình thức trị liệu.

Glass Onion: A Knives Out Mystery
(23 tháng 11, PG-13)

Từ trái qua: Kate Hudson, Leslie Odom Jr., Kathryn Hahn, Edward Norton, Jessica Henwick, Madelyn Cline và Dave Bautista trong Glass Onion: A Knives Out Mystery

Diễn viên: Daniel Craig, Edward Norton, Janelle Monáe, Kathryn Hahn, Leslie Odom Jr., Jessica Henwick, Madelyn Cline, Kate Hudson, Dave Bautista.

Phần tiếp theo của biên kịch kiêm đạo diễn Rian Johnson cho bộ phim ăn khách năm 2019 Knives Out, không có liên hệ trực tiếp nào với phần đầu, kể về một gia đình cãi nhau sau cái chết đáng ngờ của người thân trong gia đình họ (Christopher Plummer), ngoài Craig, trở lại trong vai thám tử Benoit Blanc. Ở đây, vụ giết người truyền cảm hứng bí ẩn được cho là chỉ diễn ra ở nửa sau của bộ phim. Trong khi chờ đợi, bạn có thể sẽ rất vui khi xem hàng nghìn diễn viên khác, bao gồm Norton trong vai tỉ phú kiểu Elon Musk và Bautista trong vai một ngôi sao YouTube đang được chú ý.

Điểm thảo luận: Glass Onion là phim độc lập hơn là phần tiếp theo. (Vậy thì tốt: Bạn không cần phải làm bài tập về nhà là xem phim đầu tiên. Nhưng cũng nên xem đi.) Johnson nói với Los Angeles Times: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy căng thẳng nào bằng lúc thực sự ngồi xuống viết. Tôi cũng đã dành 10 năm lên kế hoạch cho Knives Out, mà với phim này, tôi gần như bắt đầu lại từ đầu.”

Có trên Netflix từ ngày 23 tháng 12, tựa Việt Kẻ đâm lén: Glass Onion.

Strange World
(23 tháng 11, PG, ra rạp ở Việt Nam với tựa Thế giới lạ lùng)

Ethan Clade (Jaboukie Young-White lồng tiếng), trái, và Searcher Clade (Jake Gyllenhaal) trong Strange World 

Diễn viên chính: Jake Gyllenhaal, Dennis Quaid, Jaboukie Young-White, Gabrielle Union, Lucy Liu.

Câu trả lời của mùa này cho Encanto — trừ việc không có hát hò — giống như bộ phim năm 2021 đó, Strange World của Disney Animation lấy bối cảnh thế giới thần thoại, kỳ diệu gặp một mối đe dọa bí ẩn (ở đây, mùa màng đang chết dần). Gyllenhaal lồng tiếng cho anh chàng nông dân Searcher Clade, dù cái tên có nghĩa là kiếm tìm, nhưng anh không phải là nhà thám hiểm như người cha huyền thoại mất tích đã lâu. Mất tích á? Cha của Searcher (Quaid) xuất hiện trong trailer để dẫn dắt một cuộc thám hiểm giải cứu thế giới bao gồm vợ và con trai của Searcher (Union và Young-White), và chủ tịch của Avalonia hư cấu (Liu), bối cảnh của câu chuyện.

Điểm thảo luận: Đồng đạo diễn Don Hall, chỉ đạo bộ phim cùng với đồng biên kịch Raya and the Last Dragon Qui Nguyen, miêu tả bộ phim, phần nào lấy cảm hứng từ các tạp chí phiêu lưu đầu thế kỷ 20, là Jules Verne gặp National Lampoon’s Vacation.

Empire of Light
(9 tháng 12, loại R)

Micheal Ward, trái, và Olivia Colman trong Empire of Light

Diễn viên chính: Olivia Colman, Micheal Ward, Colin Firth, Toby Jones.

Nhà làm phim Sam Mendes chuyển sự chú ý từ Thế chiến thứ nhất trong bộ phim được đề cử giải Oscar 1917 sang đầu những năm 1980 với Empire of Light, một tác phẩm thơ mộng về những linh hồn lạc lối tập trung vào hai lao động trong một rạp chiếu phim bên bờ biển nước Anh. Mối quan hệ trung tâm là chuyện tình lãng mạn giữa Hilary của Colman, người quản lý trung niên mắc chứng rối loạn tâm trạng và Stephen của Ward, một sinh viên kiến ​​trúc đầy tham vọng. Trong bối cảnh phong trào đầu trọc phân biệt chủng tộc ở Anh, Stephen, người da đen và Hilary, người da trắng, đã tạo nên một mối quan hệ dịu dàng và bất ngờ.

Điểm thảo luận: Mendes đã nói nhân vật của Colman được lấy cảm hứng từ mẹ của ông. “Rất riêng tư,” ông nói với Reuters. “Thực sự được kích thích bằng ký ức thời thơ ấu của tôi, lớn lên bên một người đang suy sụp tinh thần vậy mà kiên cường nuôi nấng tôi trong lúc đó. Vì vậy, đây là bức thư thương yêu gửi đến bà và gửi cho những con người can đảm đang đấu tranh với bệnh tâm thần.”

Avatar: The Way of Water
(16 tháng 12, chưa được phân loại. Ra rạp ở Việt Nam với tựa Avatar: Dòng chảy của nước)

Từ trái qua: Sigourney Weaver vai Kiri, Zoe Saldana vai Neytiri, Jamie Flatters vai Neteyam, Britain Dalton vai Lo'ak, Trinity Bliss vai Tuk và Sam Worthington vai Jake Sully trong Avatar: The Way of Water

Diễn viên chính: Zoe Saldana, Sam Worthington, Sigourney Weaver, Kate Winslet, Stephen Lang.

Chúng ta đã chờ đợi phần tiếp theo của bộ phim ăn khách năm 2009 Avatar bao lâu rồi? Nghĩa đen là từ năm 2006, khi nhà làm phim James Cameron lần đầu tiên đề xuất muốn làm những phần tiếp theo của bộ phim này (xin lưu ý bạn, bộ phim này lúc đó thậm chí còn chưa được làm). Vào năm 2010, sau khi Avatar thành công khủng, Cameron đã xác nhận sẽ có những phần tiếp theo. (Vâng, số nhiều. Avatar 3 đã được thực hiện.) Cái gì làm ông mất nhiều thời gian như vậy? Cameron phải đợi công nghệ bắt kịp tầm nhìn của mình. Quay trở lại hành tinh Pandora, kho chứa quặng Unobtainium — tiện nói luôn, cái tên ngu ngốc nhất trên đời — bộ phim mới chứng kiến anh lính thủy đánh bộ Jake Sully (Worthington) đang cố gắng sống cuộc đời yên bình với người ngoài hành tinh da xanh Na’vi Neytiri (Saldana).

Điểm thảo luận: Avatar: Dòng chảy của nước được quay bằng phiên bản cải tiến của một công nghệ gọi là tốc độ khung hình cao. (Có ai còn nhớ công nghệ đó từ The Hobbit không?) Có tên TrueCut Motion, công nghệ này “cung cấp tất cả các ưu điểm của tốc độ khung hình cao sắc nét cho hành động nhanh có độ phân giải cao mà không làm mất đi cảm giác điện ảnh,” theo các nhà phát triển công nghệ này.

The Son
(16 tháng 12, PG-13).

Từ trái qua: Zen McGrath, Laura Dern và Hugh Jackman trong The Son

Diễn viên chính: Hugh Jackman, Laura Dern, Zen McGrath, Vanessa Kirby, Anthony Hopkins.

“Với The Son, Florian Zeller muốn làm khán giả khó chịu.” Đó là tiêu đề bài phỏng vấn của Vanity Fair với tiểu thuyết gia-trở thành-kịch tác gia-trở thành-nhà làm phim người Pháp, Florian Zeller, đã cùng với Christopher Hampton thắng giải Oscar năm ngoái cho kịch bản The Father, chuyển thể từ vở kịch của Zeller. (Cả hai phim thuộc một chùm ba vở kịch, cùng với The Mother.) Jackman và Dern đóng vai cha mẹ đã ly hôn của một thiếu niên rắc rối (McGrath) đang phải vật lộn với chứng trầm cảm. Phim không dành cho những người yếu tim.

Điểm thảo luận: Hopkins, đã thắng giải Oscar diễn xuất cho vai diễn trong The Father, đóng vai một người cha khác, rất khác trong The Son: người cha xa cách về mặt tình cảm với Peter của Jackman, nhắc nhở chúng ta rằng mọi người làm cha cũng có cha của chính họ.

The Whale
(21 tháng 12, loại R)

Brendan Fraser trong The Whale

Diễn viên chính: Brendan Fraser, Sadie Sink, Hồng Châu.

Phản ứng dữ dội diễn ra nhanh chóng sau khi những hình ảnh đầu tiên của Fraser xuất hiện trên mạng — trong bộ giả trang béo ú — vào vai một giáo viên tiếng Anh ẩn dật đang vật lộn với bệnh béo phì khi cố gắng kết nối lại với cô con gái tuổi teen (Sink). Mặc dù rất vui khi thấy nam diễn viên trở lại trong phim của Darren Aronofsky (do Samuel D. Hunter chuyển thể từ vở kịch cùng tên của anh), nhưng nhiều người không hài lòng thấy như có sự khai thác. Các bài đánh giá ban đầu còn nhiều ý kiến ​​trái chiều, một số ca ngợi diễn xuất của Fraser trong khi chỉ trích việc sử dụng phục trang làm béo. The Independent nắm bắt mâu thuẫn chung, gọi The Whale, đã mang về cho Aronofsky ba giải thưởng tại Liên hoan phim Venice, vừa “hiệu quả” vừa “thao túng quá mức”.

Điểm thảo luận: Fraser bảo vệ việc sử dụng bộ phục trang làm tăng thêm 300 pound và cần sáu tiếng đồng hồ mới mặc xong, nói với Newsweek rằng anh vốn cũng “không phải là người nhỏ bé. Tôi không biết cân nặng bao nhiêu mới đủ điều kiện đóng vai. Tôi chỉ biết mình phải thể hiện một cách trung thực nhất có thể.”

I Wanna Dance With Somebody
(21 tháng 12, chưa phân loại)

Stanley Tucci, trái, và Naomi Ackie trong I Wanna Dance With Somebody

Diễn viên chính: Naomi Ackie, Stanley Tucci, Ashton Sanders.

Biên kịch Anthony McCarten của Bohemian Rhapsody kể câu chuyện cuộc đời của một nhân vật âm nhạc nổi tiếng khác (sau Freddie Mercury của Queen): Whitney Houston, cô gái New Jersey hát ca đoàn trở thành siêu sao nhạc pop, do nữ diễn viên người Anh Ackie thủ vai, từng đoạt giải BAFTA cho vai diễn trong phim bộ Netflix The End of the F---ing World. Có rất nhiều kịch tính sẵn trong phim này. Tucci đóng vai nhà sản xuất thu âm Clive Davis, đã ký hợp đồng với Houston cho Arista Records năm 1983 ở tuổi 19, trở thành một dạng nhà ảo thuật cho cô ca sĩ trẻ. (Lưu ý: Davis cũng sản xuất bộ phim này.) Và Sanders đóng vai chồng của Houston, Bobby Brown, mà cô ấy đã chia sẻ chứng nghiện ma túy đến méo mó trong cuộc hôn nhân 14 năm đầy sóng gió của họ.

Điểm bàn luận: Rõ ràng, vẫn chưa có ai có thể sánh bằng Whitney. Các bản ghi âm giọng hát của Houston sẽ được sử dụng thay cho giọng hát của Ackie.

Puss in Boots: The Last Wish
(21 tháng 12, PG. Ra rạp ở Việt Nam ngày 30 tháng 12 với tựa Mèo đi hia: Điều ước cuối cùng)

Từ trái qua: Kitty Softpaws (Salma Hayek lồng tiếng), Perro (Harvey Guillén) và Puss (Antonio Banderas) trong Puss in Boots: The Last Wish

Diễn viên chính: Antonio Banderas, Salma Hayek, Harvey Guillén, Da'Vine Joy Randolph, Florence Pugh, John Mulaney, Olivia Colman, Ray Winstone.

Chính xác thì con mèo này có bao nhiêu mạng? Đó là câu hỏi, theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong chương mới nhất từ chuỗi phim Shrek trường kỳ của DreamWorks Animation. Puss (Banderas lồng tiếng) đã sử dụng hết mạng khi bộ phim tiến triển, nhưng chú mèo đã được hoãn: một cơ hội để khôi phục lại những mạng đã mất nếu có thể tìm thấy Điều ước cuối cùng thần thoại. Tái ngộ với mèo diệu thủ (cũng là người yêu) Kitty Softpaws của Hayek, người hùng của chúng ta bắt đầu một cuộc phiêu lưu kỳ lạ, bị các nhân vật trong nhiều câu chuyện cổ tích khác nhau truy đuổi.

Điểm thảo luận: Puss in Boots năm 2011 “hay bất ngờ”, phần lớn nhờ vào dàn diễn viên lồng tiếng tài năng (và có lẽ cũng nhờ kỳ vọng được giảm xuống). Dàn diễn viên này có Pugh trong vai Goldilocks, Mulaney trong vai Jack Horner, Colman và Winstone trong vai Mama và Papa Bear.

Babylon
(23 tháng 12, chưa phân loại. Dự kiến ra rạp ở Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 2023)

Margot Robbie, giữa, trong Babylon

Diễn viên chính: Brad Pitt, Margot Robbie, Diego Calva, Jean Smart.

Lấy bối cảnh Hollywood những năm 1920, khi Kỷ nguyên phim câm sắp kết thúc, Babylon của biên kịch kiêm đạo diễn Damien Chazelle xoay quanh một ngôi sao mới lên Nellie LaRoy hư cấu của Robbie; minh tinh điện ảnh Jack Conrad của Pitt (được cho là dựa trên John Gilbert); và Manny Torres của Calva, một người mới nổi, gốc nhập cư Mexico sinh ra ở Mỹ, đeo đuổi danh vọng. Bất chấp dàn diễn viên đông đảo — bao gồm Chloe Fineman, Flea, Lukas Haas, Spike Jonze, Tobey Maguire, Max Minghella, Eric Roberts, Katherine Waterston, Samara Weaving và Olivia Wilde — thể hiện một số người thật (ví dụ, Irving Thalberg của Minghella), Chazelle nói rằng câu chuyện “hầu hết” là bịa đặt.

Điểm thảo luận: Chazelle nói với Variety rằng anh lấy cảm hứng từ những bộ phim như La Dolce Vita của Federico Fellini, Nashville của Robert Altman và Bố già — “những sử thi kinh điển đã, thông qua một nhúm nhân vật, xoay chuyển xã hội thay đổi.”

Living
(6 tháng 1, PG-13)

Diễn viên: Bill Nighy (ảnh).

Living — câu chuyện về một người đàn ông mắc bệnh nan y (Nighy) nhìn lại cuộc đời mình và nhận ra mình chưa thực sự sống — có nguồn gốc sâu xa. Đầu tiên là tiểu thuyết The Death of Ivan Ilyich năm 1886 của Leo Tolstoy, nguồn cảm hứng cho bộ phim Ikiru năm 1952 của Akira Kurosawa. (Ikiru cũng được cho là nguồn cảm hứng cho Biutiful, của Alejandro G. Iñárritu.) Bộ phim mới này, làm lại trực tiếp phiên bản của Kurosawa, do Kazuo Ishiguro viết kịch bản, người đã từng viết kịch bản cho các cuốn sách trước đó lên phim (The Remains of the Day, Never Let Me Go), nhưng mới trở lại viết kịch bản lần đầu tiên sau 17 năm.

Điểm thảo luận: Lấy bối cảnh London những năm 1950 và do nhà làm phim người Nam Phi Oliver Hermanus đạo diễn, từng làm Moffie kể về cuộc đấu tranh của một người lính đồng tính giấu mình, Living có tất cả ADN của một phim chính kịch “buồn thảm” về niềm ẩn ức và nỗi hối tiếc, trích đánh giá của Guardian.

Lược dịch: © Hải Đăng @Quaivatdienanh.com
Nguồn: The Washington Post


* Còn gọi là mezcal: dòng rượu được làm từ cây thùa gai. Hơn 70% mezcal được sản xuất ở bang Oaxaca, Mexico. [ND]