Thị trường phim Trung Quốc tiếp tục vươn lên mạnh mẽ. Các nhà làm phim
ôm ấp khát khao phòng vé. Thương mại và nghệ thuật, biết chọn lối nào
hay cố gắng dung hòa cả hai? Hãy cùng Quái vật Điện ảnh nhìn lại một năm
thăng trầm đã qua của điện ảnh Hoa ngữ.
Điện ảnh Đại lục loay hoay giải bài toán doanh thu và chất lượng phim |
Theo
tin mới đây từ Tân Hoa xã, doanh thu phòng vé năm 2012 ở Trung Quốc đạt
khoảng 17,07 tỉ nhân dân tệ (2,74 tỉ đôla), tăng 30,18% so với 13,1 tỉ
nhân dân tệ của năm 2011.
Tuy nhiên, con số khổng lồ này không
đại diện cho sự thịnh vượng của nền điện ảnh nước này. Trên thực tế, một
số cơ quan thông tin đại chúng dùng từ “hỗn loạn” để miêu tả thị trường
phim Trung Quốc năm vừa qua.
Cảnh trong phim Back to 1942
Năm 2012, chỉ hai trong bốn nhà làm phim ngôi sao của Trung Quốc ra mắt
tác phẩm mới, nhưng cả hai đều đi chệch sang những lĩnh vực mới đối với
họ.
Đạo diễn Phùng Tiểu Cương, nổi tiếng với những phim hài lãng
mạn đặt hết tâm huyết vào phim bi kịch lịch sử giống nô lệ của tình yêu
hơn là nguyên nhân đầu tư vào đó. (Giá cổ phiếu của tập đoàn Hoa Nghị
Huynh Đệ sụt giảm khi bộ phim không thu hút lượng lớn khán giả như một
phim hài tiêu biểu của ông).
Trần Khải Ca thu hẹp tầm nhìn rộng lớn thường thấy của mình để tập trung vào vấn đề xâm phạm riêng tư nảy sinh trên mạng, nhưng
Caught in the Web thất bại ngay từ vòng đầu với vai trò đại diện của Trung Quốc ở hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất tại giải Oscar.
Các nhà làm phim hạng hai - đều ở độ tuổi 40 - đều vấp phải sự sa sút đáng kể.
The Last Supper của Lục Xuyên;
Guns N' Roses của Ninh Hạo;
11 Flowers của Vương Tiểu Soái;
Full Circle của Trương Dương;
Inseparable của Ngũ Sĩ Hiền; và
White Deer Plain
của Vương Toàn An - cùng nhiều người khác - đều đối mặt với thất thoát
tài chính. Và đa số đều không được giới phê bình đánh giá cao.
Nếu
những phim này bị chính tham vọng quá lố của mình, là quay phim vì nghệ
thuật lẫn lợi nhuận, hạ gục - thì thế hệ trẻ hơn có mục tiêu trọn vẹn
hơn. Họ trưởng thành với cả Hollywood và Hồng Kông, và cống hiến cho
việc tiên quyết nhất là kể một câu chuyện hay.
Million Dollar Crocodile của Lâm Lê Thắng,
First Time của Hàn Diên và
To Forgive của Chu Mẫn Giang đều là những phim đầu tay lấp lánh tiềm năng nhưng lại chìm lỉm mà không gợi được chút âm vang nào.
Hollywood thống trị phòng vé Trung Quốc 2012.
Với 989 triệu tệ (tính tới ngày 31/12/2012 và vượt qua 1,1 tỉ nhân dân tệ sau kỳ nghỉ Tết Dương lịch),
Lost in Thailand
của đạo diễn trẻ Từ Tranh trở thành quán quân phòng vé Trung Quốc năm
qua. Tuy nhiên, nhìn lướt qua những bộ phim còn lại trong tốp 10, ta
phát hiện chỉ có hai bộ phim Trung Quốc khác –
Họa bì 2 và
12 con giáp của Thành Long. Những bộ phim khác trong tốp 10 là
Titanic 3D,
Mission Impossible: Ghost Protocol,
Life of Pi,
The Avengers,
Men in Black III,
Ice Age: Continental Drift và
Journey 2: The Mysterious Island.
Back to 1942, tác phẩm được mong đợi từ lâu của đạo diễn nổi tiếng Phùng Tiểu Cương, xếp thứ 11 với 370 triệu tệ.
Chongqing Economic Times đưa tin, ngoại trừ vài phim như
The Great Magician / Đại ma thuật sư và
Black & White Episode 1: The Dawn of Assault,
bên cạnh doanh thu vé bán còn có phụ thu từ quảng cáo kèm theo và bán
bản quyền cho các trang web xem phim trên mạng và các đài truyền hình,
tất cả những bộ phim nội địa khác kết thúc thua lỗ. Theo Ngô Tư Viễn,
chủ tịch Hội các nhà làm phim Hồng Kông, nói với tờ báo này, 80% phim
nội địa bị thâm hụt ngân sách trong năm qua.
Dù lời kêu gọi cải
thiện chất lượng phim nội địa đã vang lên trong năm 2011 khi các tác
phẩm nước ngoài chiếm gần nửa phòng vé năm đó, phim nội địa vẫn bị đánh
bại vào năm 2012.
Bài học từ
Họa bì 2,
Lost in Thailand và
12 con giáp là công nghệ 3D, các cảnh hành động sôi nổi và nét hài hước địa phương là những yếu tố ăn tiền nhất – miễn là đúng thời điểm.
Nhất đại tông sư bị hoãn chiếu nhiều lần
Ngoài nỗi thất vọng về chất lượng của nền điện ảnh Đại lục, một điều
khác bị nhiều khán giả nội địa phàn nàn là lịch chiếu lộn xộn. Ví dụ,
Bạch Lộc Nguyên khởi chiếu vào ngày 13/9, nhưng hai ngày trước đó phim bị hoãn chiếu vì vấn đề kỹ thuật.
The Grandmaster / Nhất đại tông sư,
The Last Supper / Huyết yến và
Switch / Phú xuân sơn cư đồ
khét tiếng vì làm khán giả bực mình nhất, hết lần này đến lần khác làm
khán giả háo hức chờ ngày phát hành, sau đó hoãn chiếu hàng tháng, thậm
chí hàng năm trời.
Nhất đại tông sư là ví dụ nổi tiếng
nhất. Theo cổng thông tin điện tử ent.sina.com.cn, đã 16 năm kể từ khi
đạo diễn Hồng Kông Vương Gia Vệ lần đầu nêu ý tưởng thực hiện bộ phim.
Và khi tác phẩm này mới định ngày ra mắt vào ngày 8/1/2013, nhiều cư dân
mạng nói họ trông chờ một lần hoãn chiếu nữa.
Bên cạnh vài bộ phim kinh phí nhỏ không được chú ý nhiều, các phim kinh phí lớn, phổ biến thay đổi ngày chiếu bao gồm
Lost in Thailand,
12 con giáp và
The Last Tycoon / Thủ lĩnh cuối cùng.
Sự
rối loạn này, như bài báo trên ent.sina.com.cn đã kết luận, nhằm mục
đích tránh cạnh tranh trực tiếp với các phim bom tấn Hollywood.
Tuy
nhiên, nhà phê bình phim Phương Lưu Hương không tán thành ý kiến trên.
Anh nói, “Không có lịch chiếu thật nào ở Trung Quốc, luôn luôn hỗn loạn.
Ngay cả các bộ phim Hollywood cũng không thể quyết định khi nào thì
chiếu. Quá nhiều tác động bên ngoài có khả năng ảnh hưởng đến thị trường
[Đại lục].”
Cảnh trong phim Beijing Blues
Mặc dù hầu như mọi lúc, điều các nhà sản xuất phim quan tâm sau cùng là
tổng doanh thu phòng vé, và dù khán giả thường so sánh các bộ phim dựa
trên doanh thu vé bán, các chuyên gia trong ngành đồng thuận rộng rãi
rằng phòng vé không phải lúc nào cũng là thước đo phù hợp để đánh giá
một bộ phim.
Các ví dụ có thể thấy từ
Seediq Bale,
Beijing Blues và
Feng Shui / Vạn tiễn xuyên tâm năm vừa rồi.
Đạt chưa đến 10 triệu tệ ở phòng vé,
Beijing Blues
chứng tỏ giá trị của mình qua việc mang về giải Kim Mã, vì có thể “tạo
ra đột phá” so với các đối thủ, như nhà phê bình phim Vương Tư Vỹ đã nói
với
Global Times.
Còn
Seediq Bale và
Vạn tiễn xuyên tâm,
hai bộ phim này gây ấn tượng với người trong ngành bằng “thái độ làm
phim nghiêm chỉnh,” Phương Lưu Hương, một nhà phê bình phim tự do nói.
“Hai bộ phim này có khả năng phản ánh mặt tàn ác cũng như hiền hòa của
hiện thực và lịch sử.”
Quan điểm chỉ riêng con số phòng vé không
phải là minh chứng cho chất lượng phim cũng có thể thấy trong vài tác
phẩm quốc tế năm 2012 như
A Separation và
The Artist.
Giữa các năm 2011 và 2012,
A Separation
đoạt hơn 70 giải thưởng trên khắp thế giới, bao gồm một giải Oscar và
giải Gấu vàng Liên hoan phim Berlin. “Mặc dù hệ thống kiểm duyệt ở Iran
khắt khe hơn nhiều so với Đại lục, điện ảnh Iran không bao giờ thiếu
chất lượng,” một bài báo trên ent.sina.com.cn nói. “Với kinh phí 300.000
đôla,
A Separation khiến nhiều người trong ngành thẹn đỏ mặt.”
Theo
các thống kê trên entgroup.cn, một cơ quan chuyên nghiên cứu ngành giải
trí, đến ngày 30/12/2012, doanh thu tại Trung Quốc của
The Artist
– tác phẩm đoạt giải Oscar Phim hay nhất năm 2012 – chỉ đạt 1,54 triệu
tệ. Con số khiêm tốn này phản ánh tình trạng sẵn phim ở rạp hơn là chất
lượng phim. Thêm nữa,
The Artist đã được phát hành rộng rãi ở dạng DVD được vài tháng: những người muốn xem phim này đã mua đĩa rồi.
'Comment' thuê gây ra cuộc khủng hoảng lòng tin trầm trọng
Đạt được một năm phá kỷ lục phòng vé nội địa nữa là thành quả quan
trọng; tuy nhiên, như mọi người thường tự nhìn lại mình đôi chút vào dịp
Tết, ngành điện ảnh Đại lục nên học hỏi từ những sai lầm trong quá khứ
để tránh lặp lại chúng.
Vụ tai tiếng lớn nhất, vượt xa các vụ
khác, bị vạch trần năm vừa rồi là vấn đề “võng lạc thủy quân” (những bài
bình luận giả mạo trên mạng để thay đổi xếp hạng của một bộ phim). Khi
tai tiếng liên quan đến
The Last Supper được công khai, các
trang web bình luận phim và danh tiếng của các công ty điện ảnh phải nếm
trải cuộc khủng hoảng lòng tin trầm trọng.
Bài học mà các chuyên
gia lẫn những khán giả xem rạp thường xuyên có thể rút ra từ năm vừa
qua là đánh giá chất lượng của một bộ phim không phải lúc nào cũng dựa
trên doanh thu phòng vé cao ngất ngưởng, mà đúng hơn là từ ấn tượng mạnh
mẽ mà bộ phim để lại trong lòng khán giả.
Một năm đáng quên của điện ảnh Hồng Kông |
Năm
2012 hẳn là một năm kém vui và không đáng nhớ đối với công nghiệp điện
ảnh Hồng Kông. So với 46 phim phát hành vào năm 2011, chỉ có 32 phim
phát hành trong năm 2012.
Đó không phải là thất vọng duy nhất khi
rõ ràng thiếu sự đa dạng thể loại phim với đa phần là các phim hài lãng
mạn hay phim hành động; còn phim võ thuật, phim tâm lý và ly kỳ về tội
phạm chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Cảnh trong phim All’s Well, Ends Well 2012
Đầu năm 2012, chúng ta đã được chào đón bởi phim hài Tết thường lệ. Loạt phim
All’s Well, Ends Well
của nhà sản xuất kiêm diễn viên Hoàng Bách Minh vẫn tiếp tục mặc dù
trong buổi họp báo ở Malaysia ông nói rằng loạt phim này sẽ kết thúc.
Đối
thủ phim Tết của Hoàng Bách Minh, nhà sản xuất kiêm diễn viên Tăng Chí
Vỹ cũng tiếp tục sản xuất và đóng chính trong loạt phim hài tết của
riêng mình,
I Love Hong Kong 2012, có dàn diễn viên chính là 50 nghệ sĩ nổi tiếng.
Ngành
công nghiệp điện ảnh Hồng Kông luôn nổi tiếng với những phim hài Tết
trong ba thập kỷ qua, phát hành đến 10 phim hài như vậy mỗi năm vào đầu
thập kỷ 1990. Nhưng năm 2012, chỉ có hai phim hài Tết kể trên được sản
xuất. Đây có thể là điều tốt khi chính thể loại này đang ngày một chán.
The Great Magician /
Đại ma thuật sư
của Nhĩ Đông Thăng, với sự tham gia của dàn diễn viên từng đoạt giải
thưởng gồm có Lương Triều Vỹ, Lưu Thanh Vân và Châu Tấn, cũng phát hành
đầu năm 2012 nhưng bộ phim này thuộc thể loại độc lập bao hàm giả tưởng
và hành động pha chút hài hước.
Đại ma thuật sư thu hút nhiều
sự chú ý do dàn diễn viên toàn sao nhưng bản thân bộ phim là một sự thất
vọng, chỉ được cứu vớt bởi diễn xuất nổi bật của các diễn viên.
Thể loại hành động đứng đầu danh sách với 14 phim bao gồm những tựa đề đáng nhớ như là
Đại truy bộ của Chu Hiển Dương,
Nghịch chiến của Lâm Siêu Hiền,
Cold War / Điệp vụ đối đầu của Lương Lạc Dân và Lục Kiếm Thanh (mang về hơn 6 triệu đôla Malaysia chỉ riêng ở phòng vé Malaysia) và
12 con giáp của Thành Long.
Cảnh trong phim Cold War
Trong khi đó, thể loại phim lãng mạn – dù là hài lãng mạn hay tâm lý lãng mạn – 13 phim đã phát hành bao gồm
Diva của Mạch Hy Nhân,
Love in Time /
99 ngày thầm mến của Lý Gia Vinh,
Love is … Pyjamas của Cốc Đức Chiêu, và
Love Lifting của Khâu Lễ Đào.
Nhưng ngoài
Love in a Buff /
Xuân Kiều và Chí Minh của Bành Hạo Tường và
Romance in Thin Air của Đỗ Kỳ Phong, những phim còn lại thật đáng quên đi.
Xuân Kiều và Chí Minh là phần tiếp theo của
Love in a Puff /
Khói thuốc tình yêu
năm 2010, có cùng dàn diễn viên chính, Dư Văn Lạc và Dương Thiên Hoa.
Phim đã thu hút nhiều chú ý và được ngợi khen vì miêu tả chân thực mối
quan hệ của một cặp tình nhân.
Romance in Thin Air của
đạo diễn phim ly kỳ - tội phạm danh tiếng ổn vào thời điểm này nhưng
không để lại bất kỳ ấn tượng lâu dài nào, cho thấy Đỗ Kỳ Phong nên trở
lại làm phim ly kỳ - tội phạm xoắn não thay vì làm phim lãng mạn.
Cảnh trong phim Romancing in Thin Air
Tác phẩm thật sự xuất sắc trong cả năm 2012 là bộ phim tâm lý xúc động và độc đáo của Hứa An Hoa,
A Simple Life /
Đào tỉ,
đã đoạt năm giải thưởng chính – Phim xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc
nhất (Hứa An Hoa), Kịch bản xuất sắc nhất (Trần Thục Hiền), Nam diễn
viên xuất sắc nhất (Lưu Đức Hoa) và Nữ diễn viên xuất sắc nhất (Diệp Đức
Nhàn) – tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 31.
Điện ảnh Đài Loan nâng niu những điểm sáng độc đáo |
Khi
điện ảnh Đài Loan trỗi dậy từ gốc gác nghệ thuật và học cách yêu mến
khán giả, mảng này đã ngày càng trở nên hấp dẫn với các nhà đầu tư và
phát triển về số lượng trong những năm qua.
Tiếc thay, số lượng không đồng nghĩa với chất lượng. Năm 2012 chứng kiến một lô tác phẩm dở tệ như phim tiếu lâm
Bang Bang Formosa /
Bảo đảo đại bạo tẩu, phim hành động
Double Trouble / Bảo đảo song hùng, và phim gia đình
Cornflower Blue / Lam sắc thỉ xa cúc và
Joyful Reunion / Ẩm thực nam nữ.
Dù nhiều phim trong số này nhận được nhiều kinh phí trợ cấp từ chính
phủ, vẫn không có nhiều người buồn đến rạp xem tiền thuế của họ được
dùng thế nào.
Thậm chí các phim được khán giả đón nhận cũng không mấy thành công với các nhà phê bình. Các thành công phòng vé như
Black and White Part 1: The Dawn of Assault / Bỉ tử anh hùng thủ bộ khúc: toàn diện khai chiến, và phim làm từ tác phẩm truyền hình
The Fierce Wife Final Episode / Tê lợi nhân thê tối chung hồi, đều bị giới phê bình xem là thất bại.
Cảnh trong Bảo đảo song hùng
Bỏ qua những lời phê bình, vẫn có nhiều phim nổi bật vì câu chuyện giá
trị và góc nhìn độc đáo. Sau khi xử trí phong tục khóc thương truyền
thống của Đài Loan trong
Seven Days in Heaven / Phủ hậu thất nhật năm 2010, đạo diễn Vương Dục Lân lại tìm thấy cảm hứng nơi nền văn hóa phổ thông giàu có của vùng đất này cùng
Flying Dragon, Dancing Phoenix / Long phi phượng vũ. Lần này, thể loại ca tể hí, một dạng ca kịch của Đài Loan, ở vị trí trung tâm. Như
Phủ hậu thất nhật,
phim mới nhất này của đạo diễn Vương phối hợp hài hước với lối cường
điệu cao độ và thêm vào chút thú vị địa phương để dệt nên một câu chuyện
đầy hương vị về một đoàn ca kịch gia đình và cách các thành viên luôn
tìm ra cái đẹp của cuộc sống dù gặp khó khăn liên tiếp.
Với phim dài thứ hai,
GF*BF/Nam nữ bằng hữu,
đạo diễn Dương Nhã Triệt thuật lại cuộc sống của ba người bạn trong
thời gian gần 30 năm (từ 1985 đến 2012), cho thấy cảnh họ xoay vòng
trong thời kỳ biến loạn chính trị xã hội trước khi tình trạng thiết quân
luật được dỡ bỏ và phong trào sinh viên thập niên 1990, đến khi cuối
cùng họ chấp nhận vị trí của mình trên thế giới này trong thiên niên kỷ
mới. Dù phim vẫn còn điểm yếu, đạo diễn Dương xứng đáng được tán thưởng
vì đã tạo nên một phim hoài bão về sự mất mát và mong ngóng với một dàn
diễn viên mạnh do Quế Luân Mỹ, Trương Hiếu Toàn, và Phụng Tiểu Nhạc dẫn
đầu.
Cảnh trong Long phi phượng vũ
Được biết đến với hướng khai phá điện ảnh ở mảng ký ức và hồi tưởng,
When a Wolf Falls in Love with a Sheep / Nam phương tiểu dương mục trường
của đạo diễn Hầu Quý Nhiên lột tả một mối tình ngọt ngào tươi trẻ diễn
ra ở con đường đầy trường luyện thi ở Đài Bắc – đường Nam Dương. Có ngôi
sao trẻ Kha Chấn Đông và tài năng mới Giản Mạn Thư đóng chính, bộ phim
có vẻ sôi nổi với những đoạn hoạt hình sống động và giả tưởng thị giác,
được thể hiện tốt nhất trong cảnh mười ngàn máy bay giấy lượn ngang con
đường. Thiên hướng sử dụng con số, biểu tượng thời gian và những vật
phẩm cũ của đạo diễn Hầu dựng nên hình ảnh giống của Vương Gia Vệ, và
với bộ phim có phong cách này, đạo diễn hứa hẹn Hầu Quý Nhiên đã thành
công trong việc tạo nên một thế giới như cổ tích đầy sáng tạo nơi tình
yêu tuổi trẻ và hy vọng đâm chồi nảy lộc.
Với
Touch of the Light / Nghịch quang phi tường,
nhà làm phim đang nổi Trương Vinh Cát chọn hướng tiếp cận đơn giản,
chân thực để kể một câu chuyện ấm lòng, truyền cảm hứng về tình bạn giữa
một cô gái trẻ đa sầu đa cảm và một nghệ sĩ dương cầm tài năng bị mù từ
khi còn bé. Phần nhiều sự thu hút của phim đến từ hai diễn viên chính
được chọn khéo là Trương Dong Dung và Hoàng Dụ Tường, trong đời thực anh
là người khiếm thị đầu tiên tốt nghiệp khoa dương cầm tại Đại học Nghệ
thuật Đài Loan.
Nghịch quang phi tường có thể được xem là phiên bản mở rộng của phim ngắn
The End of the Tunnel / Thiên hắc, cũng có hai diễn viên này vào vai chính nhưng cảm xúc gói gọn vương vấn lâu hơn.
Poster Nghịch quang phi tường
Ở mảng phim tài liệu, đạo diễn Lý Tĩnh Huệ đã dành ra 13 năm theo chân
bốn nữ công nhân Philippines cô gặp lần đầu vào năm 1998 tại một viện
dưỡng lão ở Đài Bắc. Kết quả là
Money and Honey / Miến bao tình nhân,
mang đến cái nhìn gần gũi vào cuộc sống những người phụ nữ làm việc xa
nhà để giúp đỡ gia đình. Lý Tĩnh Huệ giữ nhiều vai trò trong dự án phim
tài liệu này, không chỉ là một nhà làm phim sau ống kính, mà còn là một
thành viên năng động trước máy quay, kết bạn với các công nhân này và
thậm chí còn hộ tống họ về quê nhà ở Philippines. Kết quả đợt quay bao
quát tại hiện trường các nhân vật của đạo diễn Lý là một bộ phim tài
liệu mạnh ở sự miêu tả đồng cảm, gần gũi và riêng tư về đời sống của
những người phụ nữ này. Sự bất công và phân biệt có hệ thống chỉ được
thể hiện sơ qua.
Mười phim Hoa ngữ ấn tượng nhất năm 2012 |
Khó
mà chọn ra 10 phim Hoa ngữ hay nhất năm 2012, song có những nguyên nhân
vững chắc lý giải vì sao những bộ phim đó đáng xem. Chất lượng nghệ
thuật không phải là tiêu chí duy nhất của danh sách này. Sự phổ biến
cũng là một mối quan tâm chủ yếu. Vài bộ phim có thể không nổi bật trong
mảng nào nhưng vô cùng phù hợp với xã hội hay gây ra những cuộc tranh
luận rộng rãi vượt ra ngoài bản thân bộ phim.
Back to 1942
Phùng Tiểu Cương nói về một chương đen tối trong lịch sử Trung Quốc khi
ba triệu người ở tỉnh Hà Nam chết trong nạn đói năm 1942. Trong không
khí dè dặt, đạo diễn Phùng khám phá nguyên nhân thực sự của thảm kịch,
như tệ tham nhũng và chiến tranh, đằng sau những lý do bề ngoài như hạn
hán và châu chấu phá hại. Bản thân bộ phim dài 147 phút không vui vẻ gì
nhưng lại dẫn dắt người xem suy ngẫm về cả mặt sáng lẫn mặt tối trong
bản chất của con người.
A Simple Life
Phim tâm lý của Hứa An Hoa, dựa trên câu chuyện giữa một người ở lớn
tuổi và cậu chủ trẻ, gần như hoàn hảo về dẫn chuyện và diễn xuất.
Nhân
vật chính A Đào là bảo mẫu đã sống 60 năm cùng một gia đình. Khi bà bị
đột quỵ, người con trai của gia đình nhận trách nhiệm chăm sóc bà, người
đã chăm sóc cậu từ bé.
Đạo diễn Hứa tài tình ở chỗ không chỉ làm cho
A Simple Life
lấy nước mắt khán giả, mà hơn nữa, trở thành phim tâm lý xúc động với
những người bình thường nhất. Phương pháp phản ủy mị của bà lặng lẽ kéo
khán giả vào câu chuyện và những suy nghĩ về cách chúng ta đối diện với
tuổi già.
Love in the Buff
Đây là phần hai của phim lãng mạn được đón nhận nồng nhiệt
Love in a Puff (2010).
Đôi
uyên ương trẻ tuổi người Hồng Kông phải lòng nhau qua những giờ giải
lao hút thuốc chia tay trong phần hai, và cả hai người chuyển đến Bắc
Kinh để bắt đầu lại.
Nếu phần đầu truyền tải nhiều cảm xúc khi
yêu đương hơn là câu chuyện chân thực về tình yêu, phần hai nói về những
mâu thuẫn thực tế giữa những người yêu nhau, như vấn đề ngoại tình và
người tình xưa. Phim cũng đề cập đến những khác biệt văn hóa mà nhiều
người Hồng Kông – giống như hai nhân vật chính – đương đầu khi chuyển
tới Đại lục.
Đạo diễn Bành Hạo Tường dễ dàng kể một câu chuyện hài mà nhiều người trẻ, cả ở Hồng Kông lẫn Đại lục, có thể đồng cảm.
Lost in Thailand
Bộ phim về hành trình vui vẻ của ba người đàn ông ở Thái Lan là một hiện
tượng. Phim thu về 1 tỉ nhân dân tệ (160 triệu đôla) từ khi khởi chiếu
vào ngày 12/12 để trở thành phim nội địa sinh lời nhất từ trước tới nay.
Cảm xúc vui vẻ của mùa cuối năm gắn với màu tang thương của hai bộ phim chiếu cùng lúc,
Back to 1942 và
The Last Supper, góp phần vào thành công của
Lost in Thailand.
Tuy nhiên nguyên nhân quan trọng hơn để bộ phim 30 triệu tệ gây xôn xao
như thế là cốt truyện thống nhất và diễn xuất của ba diễn viên chính –
Từ Tranh (cũng là đạo diễn phim), Hoàng Bột và Vương Bảo Cường.
Phim
không có cảnh hành động hay kỹ xảo. Nhưng ba nhân vật chính – hai người
thành thị sống dưới áp lực và một người thợ làm bánh kếp lạc quan – dễ
gây sự đồng cảm của khán giả. Các câu chuyện cười gần gũi với cốt truyện
và tính cách các nhân vật.
Đây chắc chắn không phải là một phim hài xuất sắc. Nhưng
Lost in Thailand là một bộ phim Hoa ngữ đúng thể loại hiếm thấy.
Warriors of the Rainbow: Seediq Bale
Phim sử thi đẫm máu của Ngụy Đức Thánh miêu tả ấn tượng về phong cảnh tráng lệ và những con người quả cảm ở Đài Loan.
Đài
Loan là thuộc địa của Nhật Bản từ năm 1895 đến năm 1945. Năm 1930, bộ
lạc Tái Đức Khắc, một trong những tộc người thổ dân đầu tiên định cư ở
vùng đất đồi núi này, nổi dậy chống lại quân Nhật.
Bộ phim nghiên cứu sâu một giai đoạn ít được biết đến trong lịch sử và mối quan hệ giữa văn minh và man rợ, giữa tốt và xấu.
Nhưng vì tựa đề kỳ lạ, độ dài 150 phút và tiếp thị kém, phim không được đón nhận tốt lắm ở phòng vé Đại lục.
White Deer Plain/ Bạch Lộc Nguyên
Bộ phim là đề tài bàn tán kể từ khi là ý tưởng. Cuốn tiểu thuyết chuyển
thể được cho là không thể dựng thành phim vì quy mô của câu chuyện mà nó
đề cập đến, thời gian dàn trải 50 năm với hơn 20 nhân vật chính.
Đạo
diễn Vương Toàn An, người tỉnh Thiểm Tây, nơi câu chuyện diễn ra, thành
công trong việc mang vẻ bề ngoài và cảm giác của vùng đất và những con
người nơi đây lên màn ảnh. Màu sắc và bối cảnh trở thành phần sinh động
của câu chuyện.
Tuy nhiên, đạo diễn Vương phải xử lý mâu thuẫn
giữa việc truyền tải trọn vẹn câu chuyện và kiểm duyệt. Bộ phim bị cắt
từ độ dài gốc 300 phút xuống hai giờ. Dàn diễn viên đông đảo được thay
thế bằng tiêu điểm tập trung vào Điền Tiểu Nga, một phụ nữ quyến rũ.
Có thể câu chuyện, ngay từ ban đầu, quá lớn cho khuôn khổ một bộ phim và cho môi trường ngành điện ảnh hiện tại.
Beijing Blues
Bắc Kinh đã được khắc họa trong nhiều phim Hoa ngữ đương đại, thường là
với tư cách một đô thị hiện đại. Nhưng trong khung cảnh như trên bưu
thiếp và dưới những tòa nhà chọc trời, có những người bán hàng, chủ tiệm
ăn, móc túi, bịp bợm và ăn xin sinh sống. Đạo diễn Cao Quần Thư có vẻ
quan tâm hơn đến những người dân thường và bức tranh cuộc sống của họ
qua đôi mắt một cảnh sát mặc thường phục.
Đạo diễn Cao quả là táo
bạo khi xếp 30 người nổi tiếng trên Sina Weibo, trang web dạng Twitter
của Trung Quốc, vào các vai chính. Người làm trong ngành xuất bản Trương
Lập Hiến vào vai nhân vật chính – một cảnh sát đấu tranh với tội phạm
trong cộng đồng trong khi vật lộn với vấn đề sức khỏe. Phim đoạt giải
Phim hay nhất, Quay phim xuất sắc nhất và Biên tập xuất sắc nhất tại
giải Kim Mã năm vừa qua, giải thưởng được mệnh danh là giải Oscar của
Đài Loan.
Design of Death / Sát sinh
Cách kể chuyện sáng tạo của đạo diễn Quản Hổ và diễn xuất dữ dội của nam diễn viên chính Hoàng Bột biến
Sát sinh
thành phim hài châm biếm gợi suy nghĩ, miêu tả một nhân vật đặc biệt
hiếm thấy trong các phim Hoa ngữ. Nhân vật chính Ngưu Kết Thực là mối
phiền toái, không hợp với cấu trúc văn hóa xã hội của cộng đồng, nên
luôn bị, ngay cả những người trong cộng đồng, xa lánh.
Phim gợi cho khán giả Trung Quốc nhớ tới
Nhật ký người điên của Lỗ Tấn, trong đó một thằng đần bị đánh đập dã man khi hắn vi phạm một quy tắc đạo đức của cộng đồng.
Sát sinh
có thể giống như trò hề làng xã nhưng giàu ẩn dụ và ý tưởng về mối quan
hệ giữa một cá nhân với những phong tục tập quán vững chắc của xã hội.
Họa bì 2
Phần hai của đạo diễn Ô Nhĩ Thiện thu về gần 700 triệu tệ tại phòng vé Trung Quốc.
Là một trong những phim nội địa đạt doanh thu cao nhất từ trước tới nay,
Họa bì 2
có mọi yếu tố bắt mắt mà các phim bom tấn ngày nay có thể hãnh diện:
dàn diễn viên toàn sao, kinh phí lớn, kỹ xảo phong phú và các cảnh hành
động sôi nổi.
Dù các nhà phê bình không đánh giá cao chất lượng nghệ thuật,
Họa bì 2
có những yếu tố cần thiết của một thành công thương mại. Với ngày phát
hành 28/6 – mùa nghỉ hè – và tiếp thị mạnh trong xã hội cũng như trên
các phương tiện thông tin truyền thống, thành công của phim truyền cảm
hứng cho nhiều người tìm kiếm vinh quang ở phòng vé.
The Last Supper / Huyết yến
Người xem chia làm hai phe yêu ghét. Bộ phim trúc trắc gợi cho người xem
nhớ tới các vở kịch của Shakespeare hay các tác phẩm của Akira Kurosawa
về mặt bối cảnh và lời thoại.
Vài đoạn tỏa sáng trí tuệ, song
những phần khác nhàm chán và nhạt nhẽo. Rõ ràng đạo diễn Lục Xuyên có
tham vọng và can đảm nghiên cứu thế giới nội tâm của một kẻ độc tài,
song nhiệm vụ này đôi khi dường như vượt quá tài năng của anh.
Nam
diễn viên chính Lưu Diệp không phù hợp cả về tuổi tác lẫn diễn xuất để
khắc họa đúng nhân vật chính phức tạp, trong khi các nhân vật phụ thật
tẻ nhạt.
Dịch: © Xuân Hoa – Thái Hiền - Mai Khanh - Minh Phát @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Global Times, China Daily, Taipei Times, The Sun Daily
Hãy chia sẻ ý kiến của bạn về bài viết này trên
Facebook của chúng tôi