“Bộ phim đó chịu trách nhiệm biến tôi trở thành một nhà cổ sinh vật học,” anh nói.
Cảnh trong phim Công viên kỷ Jura đầu tiên, với các diễn viên (từ trái qua): Jeff Goldblum, Richard Attenborough, Laura Dern và Sam Neill
|
“Tôi 25 tuổi và bị ảnh hưởng bởi bộ phim rất nhiều. Làm dấy lên lại toàn
bộ niềm đam mê khủng long tôi đã có khi còn nhỏ. Đến nay tôi đã nghiên
cứu cổ sinh vật học được 23 năm. Và tất cả là vì Công viên kỷ Jura.”
Mặc
dù khởi đầu muộn, câu chuyện của Adams không phải là bất thường. Trò
chuyện với bất kỳ nhà cổ sinh vật nào lớn lên trong thập niên 80 và 90
thì đều có khả năng họ sẽ nói với bạn điều tương tự - những giấc mơ thời
thơ ấu trỗi dậy nhờ bộ phim bom tấn năm 1993 của Steven Spielberg.
Steve
Brusatte, 34 tuổi, phó giáo sư cổ động vật có xương sống tại Đại học
Edinburgh, đã xem phim đó với anh trai của mình hồi 9 tuổi.
“Phim
làm chúng tôi choáng váng hết cả tâm trí,” anh nói. “Bộ phim giới thiệu
một hình ảnh mới về khủng long. Tất cả các cuốn sách, phim ảnh và
chương trình truyền hình mà tôi nhớ đã xem hồi còn nhỏ miêu tả khủng
long như những con vật ngu độn, di chuyển chậm chạp, nhàm chán chỉ ngồi
đó chờ đợi tuyệt chủng. Công viên kỷ Jura là một khám phá. Nó cho thấy
hình ảnh chính xác hơn về khủng long là năng động, tràn đầy năng lượng
và thông minh.”
Tiến sĩ Ellie Sattler, nhân vật do Laura Dern thủ vai, trong bom tấn Jurassic Park năm 1993
|
Và với Rebecca Hunt-Foster, nhà cổ sinh vật học 39 tuổi ở Utah, tiến sĩ
Ellie Sattler, nhân vật do Laura Dern thủ vai, đã truyền cảm hứng.
“Nhìn thấy một nhà khoa học nữ mạnh mẽ, thông minh và can đảm có tác động rất lớn đến cô bé 14 tuổi trong tôi,” cô nói.
Jurassic Park không chỉ phá tan kỷ lục phòng vé (bộ phim thu về hơn 900 triệu đôla toàn cầu) và tạo ra một chuỗi phim - phần thứ tư
Jurassic World: Fallen Kingdom
ra mắt cuối tuần này; nó dẫn đến sự gia tăng số lượng người theo chuyên
ngành cổ sinh vật học và một bước nhảy vọt lượng tử những điều chúng ta
biết về khủng long. “Nếu nó không phải vì
Jurassic Park khiến
công chúng hào hứng về khủng long và sau đó đết lượt công chúng đi thăm
các bảo tàng, chúng tôi sẽ khó mà trở thành những nhà cổ sinh vật học,”
Adams thừa nhận. “Bởi vì chuyện là: các bảo tàng và trường đại học và
các tổ chức khác nói, ‘Này, người ta thích khủng long kìa, vì vậy chúng
tôi sẽ tài trợ cho bạn làm nghiên cứu, phát triển công nghệ’.”
Thói quen ăn uống của khủng long Heterodontosaurus tucki được phát hiện bằng cách sử dụng công nghệ chụp cắt lớp
|
Và, Adams cho biết, sự gia tăng tài trợ và sự gia tăng số lượng các nhà
cổ sinh vật học đã dẫn đến sự gia tăng đột biến khối lượng các khám phá
về khủng long. “Trước giữa thập niên 1980 có chừng một hoặc ba khám phá
mới mỗi năm. Hôm nay chúng ta đang tìm kiếm khoảng 50 loài mới được phát
hiện một năm. Và lý do là vì có nhiều người tìm kiếm khủng long hơn và
họ sẽ đến những nơi khác nhau để tìm kiếm khủng long. Điều đó đã xảy ra
sau Công viên kỷ Jura, sau năm 1993.”
Những khám phá như vậy bao
gồm Acrotholus, có thể là loài khủng long đầu xương xưa nhất trên thế
giới, được phát hiện ở Canada vào năm 2008; và xác nhận năm ngoái rằng
khủng long Patagotitan cổ dài - biệt danh là Titanosaur khi nó được phát
hiện ở miền nam Argentina vào năm 2012 - là động vật lớn nhất từng bước
đi trên trái đất. Công nghệ mới cũng đã cách mạng hóa hiểu biết của
chúng ta về thế giới thời tiền sử.
“Trong thập kỷ qua, các bản
chụp cắt lớp CAT sọ khủng long bạo chúa (Tyrannosaurus rex) đã cho phép
chúng ta hình dung khoang não,” Brusatte nói. “Và từ đó chúng ta biết
rằng T. rex có thị giác hai mắt.”
Nhân vật Alan Grant của Sam Neill đối mặt với một con khủng long trong Jurassic Park năm 1993
|
Điều này mâu thuẫn với một trong những cảnh nổi tiếng nhất trong phim
đầu tiên (có sử dụng một số cố vấn khoa học đáng kính), nhân vật Alan
Grant của Sam Neill nói với những người bạn đồng hành, khi một con T.
rex chồm tới họ: “Đừng cử động! Nó không thể nhìn thấy nếu chúng ta
không cử động.”
“Khủng long T. rex thực sự có thị giác chiều sâu
3D,” Brusatte nói. “Nó còn có thể nghe thấy một dãy âm vực tiếng động và
có khả năng đánh hơi tuyệt vời. Nếu con T. rex đuổi theo bạn, có thể nó
sẽ bắt được bạn.”
Sự bùng nổ trong ngành cổ sinh vật học cũng đã
dẫn đến phát hiện làm chuyển đổi hệ thuyết rằng hầu hết các loài khủng
long đều có lông. Lý thuyết cho rằng các loài chim tiến hóa từ khủng
long đã được chấp nhận là thực tiễn khoa học vào thời điểm bộ phim Công
viên kỷ Jura được làm, nhưng chỉ đến năm 1996, hóa thạch khủng long có
lông đầu tiên mới được tìm thấy - ở tỉnh Liêu Ninh, đông bắc Trung Quốc.
Khủng long cá mập Mosasaurus trong Jurassic World năm 2015
|
“Những con khủng long ở Trung Quốc bị dung nham núi lửa chôn vùi,”
Brusatte giải thích. “Trong hàng tỉ tình trạng bảo tồn mới thấy được một
thứ gì đó mềm mại, như da hoặc cơ bắp hoặc các cơ quan nội tạng, được
bảo tồn. Sau đó, càng ngày càng nhiều mẫu bảo tồn từ gỗ. Chúng tôi chìm
ngập trong những khám phá khủng long có lông và bây giờ chúng ta biết,
20 năm sau, có lẽ hầu hết các loài khủng long, nếu không phải tất cả
loài khủng long, đều có lông.”
Tất nhiên, các phim
Jurassic Park
đã không đưa lên tất cả thông tin này. Mỗi nhà cổ sinh vật học đều có
đề tài yêu thích - cho dù đó là kích thước quá khổ của khủng long cá mập
Mosasaurus trong
Jurassic World năm 2015 hay con Dilophosaurus nhỏ xíu trong phim gốc có diềm xếp nếp và nọc độc.
Paul
Barrett, chuyên gia khủng long tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên London,
nói: “Không có bằng chứng nào cho thấy nó có xếp nếp. Hay là bất kỳ loài
khủng long nào có độc. Và vào thời điểm đó chúng tôi đã biết như thế.”
Nhưng
hầu hết đều đồng ý rằng những điều không chính xác – tuy là “con dao
hai lưỡi,” theo lời Barrett - có thể là một lực lượng tích cực.
Khi Jurassic World: Fallen Kingdom ra rạp tuần này ngày 8/6 (ở Việt Nam với tựa: Thế giới khủng long: Vương quốc sụp đổ),
khủng long bạo chúa, khủng long cổ dài và nhiều loại khủng long to lớn
nhất từng bước đi trên trái đất có thể một lần nữa sẽ lại làm xuất hiện
những người theo đuổi ngành cổ sinh vật học từ trong số khán giả mê mẩn
|
“Có một hiện tượng thú vị xảy ra khi những bộ phim này xuất hiện,” Adams
nói. “Giới chuyên môn nổi giận về những thứ không chính xác. Nhưng tôi
luôn nghĩ, ‘Bạn biết là cũng được mà. Đâu cần phải chính xác’. Người ta
đâu có làm phim cho các nhà cổ sinh vật học. Họ sẽ không kiếm được tiền
nếu làm thế. Và họ khiến mọi người hào hứng về khủng long và điều đó đưa
người ta đến với bảo tàng và ở đó tôi có thể nói, ‘Này, quý vị đang ở
đây, chúng ta hãy dành một chút thời gian để nói cổ sinh vật học thực sự
là gì nhé. Và có thể làm như vậy quả là điều tuyệt vời.”
Dịch: © Ngân Mai @Quaivatdienanh.com
Nguồn: The Telegraph