Brian Raftery là cây bút lão luyện tại WIRED. Quái vật Điện ảnh chuyển
ngữ bài viết của tác giả sau chuyến thăm trường quay và trao đổi với
đoàn làm phim Blade Runner 2049.
TÔI NHÌN THẤY NHỮNG THỨ mà người đời quý vị sẽ không tin: Những tòa nhà
chọc trời chìm trong sương mù vàng vọt; Elvis Presley biểu diễn trên sân
khấu của một hộp đêm; nước tràn ra cửa sổ của một chiếc xe bay,
chỉ để tan biến — như nước mắt trong mưa.
Và tôi đã nhìn thấy thợ săn người nhân bản đầu tiên lại bắt đầu chạy... lần nữa... và lần nữa.
Ryan Gosling (phải), anh xem Harrison Ford (trái) trong phim Blade Runner đầu
khi còn là cậu nhóc ở Canada, nói: "Sức mạnh của khoa học giả tưởng, và
điều tích cực về nó, là bạn có thể trải nghiệm tình huống xấu nhất mà
không phải thực sự sống qua."
|
Một buổi sáng mùa thu năm 2016, trong phòng thu sâu hun hút ở Budapest,
Harrison Ford — mặc áo khoác xám, quần jean sẫm màu, mang vẻ mặt nhăn
nhó khó chịu của Ford — đang quay một cuộc chạm trán quyết định trong
Blade Runner 2049. Lần đầu tiên sau hơn ba thập niên, Ford trở lại vai Rick Deckard, tay cảnh sát say xỉn từ
Blade Runner
năm 1982 của Ridley Scott. Nam diễn viên 75 tuổi chịu đựng nhiều thương
tích do công việc bao năm — đây là chàng trai đã lãnh một đụn lớn
của chiếc Millennium Falcon rơi lên chân — nhưng anh chẳng có dấu hiệu
hao mòn nào khi chạy nước rút băng qua chung cư giống như hầm mộ của
Deckard, lắc vai mạnh mẽ và một con chó sói phi bên cạnh. Trong cảnh
quay ngày hôm đó, Deckard đang bị đặc vụ tên là K (Ryan Gosling)
truy lùng, một cách có phương pháp — thậm chí có phần một cách như rôbô —
đã bùng qua bức tường đá cẩm thạch của Deckard như một Kool-Aid Man săn
chắc hơn, dữ tợn hơn. Nhưng cứ mỗi lần Gosling bùng phá được vào trong
phòng, lại làm cho con chó sợ hãi, hoảng loạn trước khung hình cho đến
khi Denis Villeneuve, vị đạo diễn người Pháp-Canada 49 tuổi, có thể hô,
"Cắt!"
Không rõ tại sao K lại không sử dụng cửa trước, vì cốt truyện của
Blade Runner 2049 được canh phòng cẩn mật với kiểu mức độ luôn được dành cho những cảnh phim quay lại của
Star Wars.
Tuy nhiên, có một vài chi tiết đã được xác nhận: Ba mươi năm sau khi
khán giả bỏ lại Deckard bầm dập và nhừ tử ở Los Angeles năm 2019, anh đã
biến mất, và nhân vật sĩ quan Sở cảnh sát Los Angeles của Gosling đang
đi săn tìm (có thể theo chỉ thị của sếp anh, do Robin Wright đóng, mặc
dù không ai liên quan đến bộ phim này nói chắc được.) Trong khi đó, có
một giống nòi người nhân bản (replicant) mới — thuật ngữ của loạt phim
để chỉ người máy sinh học — được một nhà phát minh bí ẩn tên là Wallace
(Jared Leto) tạo ra, với sự trợ giúp của một nhân viên tận tụy, Luv
(Sylvia Hoeks). Êkíp làm phim
2049 cho tôi biết được bấy nhiêu,
bất kể tôi hỏi han lịch sự đến đâu. "Thậm chí tôi không chắc mình có
được phép nói rằng tôi đã có một thời gian rất vui khi đóng phim này
không nữa," Gosling đùa.
Harrison Ford trở lại vai Rick Deckard, chạy nước rút, lắc vai mạnh
mẽ và một con chó sói phi bên cạnh. Đặc vụ tên là K (Ryan Gosling) bùng
qua bức tường đá cẩm thạch, truy đuổi
|
Trong lúc Ford lao qua cảnh quay hết lần này đến lần khác và Gosling tiếp tục
bùng qua tường, Villeneuve đứng bên ngoài căn hộ chung cư giả đó, mái
tóc ngắn hoa râm của anh trông rối bù như sáng sớm mới thức dậy. Khi
Villeneuve hài lòng với một cảnh quay, anh thường lặp lại những từ của
anh, lần nào cũng như lần nấy, bằng giọng Quebec đặc sệt. "Khi bạn nghe
ba từ deeply – ‘Tôi hết sức, hết sức, thích hết sức’ — thì bạn biết mình
vào trúng điểm ngọt rồi đó,” Gosling nói.) Sau khi cuối cùng con chó
cũng diễn được đúng lúc, Villeneuve cho tay vào túi áo và gật đầu vui
vẻ: "Tuyệttuyệttuyệttuyệttuyệt."
Mặc dù thái độ của đạo diễn rất
điềm đạm — khi không nói chuyện khẽ khàng với các diễn viên, anh nhai
kẹo cao su và vuốt ve bộ râu của mình một cách khắc kỷ — anh đã lo lắng.
Anh không muốn những cảnh hành động trong
2049 của anh quá ồn ào hoặc táo bạo hoặc, như anh nói, "quá Marvel". Thay vào đó, anh nói, "Tôi muốn hạ xuống càng gần càng tốt với
Blade Runner
gốc: đơn giản, tàn bạo hơn." Điều đó là hợp lý nếu phim đầu tiên đã
thành công và người xem đã đổ xô đến với tầm nhìn ớn lạnh (và, vâng, tàn
bạo) về một tương lai không-quá-xa-xôi bị tàn phá bởi thảm họa sinh
thái và doanh nghiệp thối nát. Nhưng người ta đã không thế, và thậm chí
sau nhiều thập kỷ tiếp theo phát hiện trào lưu, giới phê bình xét lại,
và ảnh hưởng văn hóa to lớn,
Blade Runner 2049 vẫn là một trong
những dự án hiếm nhất ở Hollywood: một bộ phim trị giá 150 triệu đôla,
phân loại R là phần tiếp theo của một phim không nhiều người thích (hoặc
thậm chí là hiểu được) khi lần đầu tiên xuất hiện.
Điều làm cho tất thảy những chuyện trên càng khó ước tính hơn đó là
2049 —
mất 35 năm thực hiện và ra rạp trong tháng này — hứa hẹn một viễn cảnh
tương lai thậm chí còn tối tăm hơn phim đầu, khuếch đại nỗi sợ hãi tương
lai hậu tận thế vốn đã ‘xịt’ với người xem phim và các nhà phê bình hồi
năm 1982. Nếu khán giả phải mất nhiều năm mới kết nối được với tương
lai trong
Blade Runner đầu, thì họ sẽ phản ứng thế nào với phiên bản sự tình trở nên
còn tồi tệ hơn nữa của Villeneuve?
Đạo diễn Denis Villeneuve (phải) đang chỉ đạo Ford và Gosling trên trường quay Blade Runner 2049
|
RIDLEY SCOTT THỀ RẰNG ông không nghĩ quá nhiều về quá khứ. Hỏi ông liệu ông có thấy dường như rốt cuộc thế giới đã bắt kịp
Blade Runner không, ông sẽ cho bạn một cái nhìn chằm chằm dữ dội và một cái nhún vai: "Tôi cóc cần biết."
Chờ đã, thực không?
"Không,
tôi cóc cần quan tâm," ông nói. "Tôi đã có một bộ phim quay ở Rome
trong hai tuần. Điều quan trọng cần làm là tiến lên và không bao giờ
nhìn lại."
Scott, 79 tuổi, đã từng làm ra một số phim khoa học
viễn tưởng đình đám, đi trước thời đại, được chế tác tỉ mỉ nhất trong
bốn thập niên qua. Vào một buổi chiều mùa xuân ở Los Angeles, ông ngồi ở
cuối trường kỷ trong bộ đồ toàn đen, phong cách thân mật và nhiệt tình,
dẫu là theo kiểu nào-hãy-dành-thời-gian-cho-chuyện-này nhé. Và mặc dù
Scott nói ghét nhìn lại, ông đã dành nhiều thập niên cố gắng duy trì
quan tâm đến
Blade Runner, dẫu (hoặc có lẽ vì) sự khó khăn của
ông mà làm cho bộ phim — các nhà bỏ vốn tức giận, một êkíp đau khổ, trì
hoãn bất tận cạn kiệt sinh lực — kéo dài đến độ có thể viết thành cả một
cuốn sách, cũng như một phim tài liệu dài ba tiếng rưỡi.
"Khoa học giả tưởng là một hình thức thính phòng rất đặc biệt,"
Scott nói. "Đó là một rạp hát, một cái hộp, trong đó chuyện gì cũng có —
nhưng tốt hơn bạn nên soạn ra các hướng dẫn và quy tắc trước khi bắt
đầu."
|
Thiên truyện ngoài màn ảnh bắt đầu năm 1977, khi một nam diễn viên đang
chật vật tên là Hampton Fancher để mắt tới việc làm một bộ phim từ tác
phẩm
Do Androids Dream of Electric Sheep của Philip K. Dick,
một cuốn tiểu thuyết đầy ắp ý tưởng, hoang tưởng về một thợ săn-người
máy, Deckard, phải lòng một người máy tổng hợp tên là Rachael. Trong
tiểu thuyết, cũng như trong bản phim hoàn chỉnh, các người máy do một
công ty bí mật, khẳm tiền chế tạo ra và thường được gửi đi làm những
công việc mà con người không muốn làm nữa. Lấy tên
Blade Runner từ một cuốn sách của William S. Burroughs, Fancher cộng tác với Scott — cất cánh từ bộ phim không gian
Alien ám
ảnh thành công đình đám — và cả hai đã trải qua những tháng dài, đôi
khi gây gổ kịch liệt, làm ra các phiên bản ban đầu của kịch bản, tìm
cách hình thành khái niệm cuộc sống vào năm 2019. "Khoa học giả tưởng là
một hình thức thính phòng rất đặc biệt," Scott nói. "Đó là một rạp hát,
một cái hộp, trong đó chuyện gì cũng có — nhưng tốt hơn bạn nên soạn ra
các hướng dẫn và quy tắc trước khi bắt đầu. Bằng không, bạn tiêu tùng."
Sau quá nhiều bất đồng sáng tạo với Fancher, Scott đưa David Peoples (của
Unforgiven và
12 Monkeys)
về để giúp hoàn thành kịch bản. Năm 1981, cuối cùng phim đã khởi quay,
với Ford trong vai Deckard và Sean Young trong vai Rachael, và một đạo
diễn Scott sinh ở Anh phát hiện ra mình lệch pha với êkíp người Mỹ của
ông — và, có tin đồn, với Ford. Scott phủ nhận sự căng thẳng giữa ông và
ngôi sao của ông tệ hại như những gì các báo đưa tin làm người ta tin:
"Ồ, chúng tôi ổn mà! Tôi thường uống say với Harrison trong quá trình
quay phim."
Một cảnh trong Blade Runner 1982, với cấu trúc và bầu không
khí trong một bối cảnh mơ hồ - Nhiều trong số những người đã mua vé đi
xem dội ngược bởi miêu tả tương lai của bộ phim
|
Khi
Blade Runner được phát hành vào tháng 6/1982, ngay cả sức mạnh ngôi sao hậu-
Star Wars của Ford cũng như uy tín của Scott hậu-
Alien cũng
không đưa bộ phim trở thành ‘hit’ nổi. Lấy bối cảnh một tương lai xám
xịt, không mong muốn, không có ánh nắng hay cảnh trời quang mây tạnh —
và bùng nổ với những khoảnh khắc (theo nghĩa đen) bạo lực lác mắt — bộ
phim khiến hầu hết người xem mất hứng, họ bèn chọn trải qua mùa hè với
E.T. hoặc cuốn vào cơn thịnh nộ của Khan. (
Blade Runner kiếm được một con số xoàng xoàng 6,15 triệu đôla trong tuần mở màn, chỉ hơn
Rocky III đã
trình chiếu gần cả tháng). Nhiều trong số những người đã mua vé đi xem
bị dội ngược bởi miêu tả tương lai của bộ phim. "Không giống như
Flash Gordon,
trong phim ai cũng có những bộ đồ không gian tuyệt vời và tàu vũ trụ
sáng bóng, và ai nấy trông thật gợi cảm," nhà vật lý theo thuyết vị lai
Michio Kaku nói. "Trong
Blade Runner, người ta không thích nghi với ngoại cảnh, còn các rôbô làm công việc bẩn thỉu. Phim gây sốc cho mọi người."
Cú sốc đặc biệt khó giũ bỏ vì, không như đa số phim khoa học giả tưởng khác của thời kỳ ấy,
Blade Runner không tìm tương lai ở đâu xa. Trái với những phim
Star Trek hay
Alien — những cuộc lùng sục dải ngân hà nhiều thế kỷ về sau —
Blade Runner
của Scott là một lời tiên đoán hay nhất giới hạn ở Trái Đất về một
thành phố hỗn loạn ở nước Mỹ có thể trông ra làm sao trong vòng thời
gian sống của khán giả. Bạn cảm thấy như thể gần như với tay chạm vào
công nghệ trong
Blade Runner, khiến cho thế giới mà bộ phim này
đang hướng đến thảy càng rõ ràng hơn — và đáng sợ. "Đó là một bộ phim
ám ảnh bạn," Gosling nói, anh đã xem bản gốc
Blade Runner lúc mới lớn ở nhà anh ở Canada, "vì cảm giác tương lai đó có thể xảy ra."
Những đường phố đông đúc, những đường chân trời văn hóa hỗn loạn, và các công nghệ tiềm ẩn độc hại trong Blade Runner năm 1982
|
Blade Runner biến khỏi rạp nhanh chóng như khi nó đến, mặc dù
bây giờ Scott cho biết ông không hoàn toàn ngạc nhiên bởi cuộc đời thứ
hai kỳ lân-hiếm có của nó bên ngoài màn ảnh rộng. "Tôi biết chúng tôi có
gì," ông nói. “Và tôi biết nó đặc biệt.” Vài năm sau khi phát hành,
Fancher bước vào một hiệu sách Shakespeare & Co. ở thành phố New York,
người bán sách nhận ra tên của nhà biên kịch. "Anh ấy nói, 'Chúng
tôi có một câu lạc bộ
Blade Runner!'" Fancher nhớ lại. "Chúng tôi đã mua một bản phim 35mm, và mỗi tháng chúng tôi gặp nhau rồi tìm một chỗ để chiếu."
Nhờ
vào các buổi trình chiếu nửa đêm, truyền hình cáp và phát hành video
gia đình, ngày càng có nhiều người xem thấy mình lạc trong thế giới
tương lai của
Blade Runner, cuốn hút vào sự hùng vĩ của cảnh
quan thành phố bị giam hãm trong phim và phát biểu của Rutger Hauer
trong mưa rơi và âm thanh thánh thót, cảnh nhân vật phản diện Roy Batty
của anh, than khóc một cuộc đời mà anh ta chỉ mới bắt đầu hiểu. (
“Tôi đã nhìn thấy những thứ người ta sẽ không tin…”) Và vì cách kể chuyện rườm rà dài dòng cùng sự mơ hồ trong thể loại của bộ phim, mỗi lần xem có thể cảm nhận
Blade Runner
mỗi khác: một câu chuyện trinh thám, một phim hành động, một phim lãng
mạn — hoặc có thể tất cả cùng một lúc. "Tôi chắc chắn đã xem bộ phim là
một câu chuyện tình, về những người tìm kiếm nhân thân của mình," Hoeks
của
2049 nói, cô đã xem phim này lần đầu ở quê nhà Hà Lan. "Và phim nói về những con người nỗ lực kiểm soát cuộc đời họ."
Cảnh nhân vật phản diện Roy Batty của Rutger Hauer phát biểu trong mưa rơi và âm thanh thánh thót trong Blade Runner
|
Trong vòng một thập kỷ, Scott đóng lại câu chuyện công nghệ-đen tối —
với những đường phố đông đúc, những đường chân trời văn hóa hỗn loạn, và
các công nghệ tiềm ẩn độc hại — sẽ thúc đẩy một thế hệ các nhà làm phim
mới theo đuổi những tầm nhìn tương lai óng ả, phô trương của riêng họ,
nhiều trong số đó trông rất giống
Blade Runner. Vẻ đẹp ẩm ướt của
Blade Runner đã chảy tràn qua những bộ phim điện ảnh và truyền hình như
The Matrix,
Cowboy Bebop,
Akira,
The Fifth Element và
Ghost in the Shell bản gốc. Trong khi đó, những trò chơi video như
BioShock và
Perfect Dark, đã vay mượn rất nhiều vốn từ vựng hình ảnh của
Blade Runner. "Thoạt đầu tôi đã thích thú trước việc
Blade Runner là một phim có tầm ảnh hưởng," Scott nói. "Sau đó, tôi chán ngấy cảnh mưa rơi trên phim."
Tất cả phim khoa học giả tưởng tuyệt nhất được sao chép qua các phim khoa học giả tưởng khác —
Star Wars cuối thập niên 70/đầu thập niên 80 sản sinh ra đầy những câu chuyện không gian nhố nhăng, rác rưởi;
The Terminator đúc được cả một kệ trong tiệm cho thuê video những phim rôbô-sát thủ;
Alien giải phóng ra một thiên hà những quái vật phá hủy tàu không gian. Nhưng
Blade Runner
nổi bật không chỉ vì ảnh hưởng của nó mà còn vì khả năng nhìn thấy
trước của nó. Hãy nghĩ về những ngọn đèn hoạt hình tô điểm cho tòa nhà
Trung tâm Thương mại Quốc tế Hồng Kông, hoặc tòa tháp Wilshire Grand mới
khai trương của Los Angeles có cột sống phát sáng. Rảo qua các khu
trung tâm Manhattan hoặc Tokyo, với màn hình đèn LED và các quảng cáo
chiếm lấy bầu trời. Chúng là loại cảnh quan tấn công ý thức đã trở thành
hiện thân cho khái niệm chung của chúng ta về "tương lai", và mặc dù
những nhà thiết kế ra chúng chẳng có thứ gì khác trong đầu ngoài một bộ
phim khoa học giả tưởng mười năm trước là chuyện không có gì nghi ngờ
rồi đó, rất khó nhìn chúng mà không thắc mắc rằng ảnh hưởng của
Blade Runner bắt đầu ở đâu và kết thúc nơi nào.
Cảnh quan thành phố trong Blade Runner đã trở thành khuôn mẫu văn hóa-thị giác của chúng ta về tương lai
|
"
Blade Runner đã thay đổi cách nhìn thế giới và cách chúng ta
nhìn thế giới,” William Gibson nói. Bố già nổi tiếng của thể loại
cyberpunk* bước ra khỏi rạp chiếu, bàng hoàng rằng hình ảnh của nó đã
"hút sạch bầu không khí của cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi" — tiện thể
nói luôn, cuốn
Neuromancer đã trở thành cuốn tự điển của tin
tặc — mặc dù cuối cùng một thập niên sau đó ông đã nắm bắt bộ phim đầy
đủ và đã hiểu tại sao nó lại có ảnh hưởng đến thế. Giờ đây ông nói,
"Đúng là kinh điển. Và nó đã trở thành khuôn mẫu văn hóa-thị giác của
chúng ta về tương lai."
Di sản lâu bền nhất của
Blade Runner có
thể là cái sự lửng lơ không bao giờ được giải quyết của bộ phim: Thực
ra thợ săn người nhân bản Deckard có phải là một người nhân bản không?
Bao thập niên rồi ‘fan’ đã tranh cãi câu hỏi này, được kích thích bởi
những phim mới mà Scott đã phát hành nhiều năm qua để làm sắc nét và làm
rõ tầm nhìn ban đầu của ông. (Có vẻ sự đồng thuận là: Đúng, Deckard là
người nhân bản... có lẽ thế.) Bất kể bạn ở bên nào, đây là loại tình
huống lúng túng hiện sinh chỉ càng dẫn đến lúng túng nhiều hơn — về cách
chúng ta định nghĩa "con người"; về việc liệu những đặc điểm của chúng
ta có phải là độc nhất vô nhị không; về việc chúng ta có thể tin tưởng
ký ức của mình đến mức nào.
Nhà viết tiểu thuyết khoa học giả
tưởng Madeline Ashby, chuyên về rôbô và trí tuệ nhân tạo, nói: "Một bộ
phim mơ hồ: Liệu anh ấy là hay không là người nhân bản, và chuyện đó có
quan trọng không? Đó là về bạn là ai, và bạn có mặt trên đời để làm gì,
và những ký ức nào là quan trọng đối với bạn." Ford nói thêm: "Có bao
giờ người ta biết được làm sao mình có mặt ở đây — về cách bạn được tạo
ra?"
Rick Deckard của Ford là thợ săn người nhân bản đã phải lòng người
nhân bản Rachael (Sean Young, trái): Những con người tìm kiếm nhân thân
hiện sinh như thế là lý do vì sao Blade Runner đi từ bị ruồng rẫy trở thành sấm truyền
|
Những con người tìm kiếm nhân thân hiện sinh như thế là lý do vì sao
Blade Runner
đi từ bị ruồng rẫy trở thành sấm truyền. Và cũng là lý do tại sao Scott
bao lâu nay đã hy vọng thêm một chương mới vào thiên truyện này. Ông
nói, "Luôn còn có một câu chuyện
Blade Runner nữa."
***
MỘT TỐI ĐẦU NĂM 2011, ngay khi ông sắp khởi quay
Prometheus — lần đầu tiên trở lại loạt
Alien kể
từ khi ông cho ra mắt năm 1979 — Scott có buổi ăn tối kéo dài ba tiếng
đồng hồ ở London với hai nhà sản xuất Broderick Johnson và Andrew
Kosove. Công ty Alcon Entertainment của họ vừa mới phất với những bộ
phim thành công đình đám như
The Blind Side,
The Book of Eli, và
Dolphin Tale, và họ đã dành cả năm trời lặng lẽ thu tóm quyền sản xuất một phim
Blade Runner
mới. Nhà đạo diễn có quan tâm đến việc tham gia cùng họ để thảo luận về
một phần tiếp theo không? "Ridley nói, ‘Tôi chờ đợi cuộc gặp này đã 35
năm,’" Kosove nhớ lại.
Không lâu sau đó, Hampton Fancher đang ngồi trong căn hộ ở Brooklyn thì điện thoại reo:
Xin hãy giữ máy chờ Ridley Scott. Nhiều năm qua hai người đã không nói chuyện, nhưng với việc vị đạo diễn này một lần nữa lại thử nghiệm chuỗi phim
Blade Runner,
ông muốn biết liệu Fancher có thể bay đến London để bàn luận ý tưởng
không. "Tôi lập tức nói, 'Ồ, cuối cùng ông đã chịu xuống nước rồi,’"
Fancher nói về đối tác thường xuyên gây gổ cũ của mình. “Và ông ấy
cười.” May sao, lúc đó Fancher đang viết một truyện ngắn mà nhân vật
chính cuối cùng đã trở thành đặc vụ K. của
2049. Những trang
truyện ngắn đó cuối cùng đã được biến thành cách giải quyết và một kịch
bản ngắn, sau đó chuyển sang một nhà biên kịch tên là Michael Green, lúc
bấy giờ chủ yếu được biết đến với tác phẩm truyền hình. Kịch bản thành
quả bí mật đến mức có lúc nó được đặt mật danh là Acid Zoo, dựa theo câu
chuyện mà Fancher thích kể về thời gian ông chơi thuốc ảo giác LSD và
nhìn chằm chằm vào mấy con khỉ đột. Thậm chí ngay từ đầu Scott và
Fancher đều nghĩ đến Gosling vào vai đặc vụ K, và Scott khẳng định giữ
Ford quay lại trong phát triển của kịch bản. Trong một cuộc phỏng vấn
hồi năm 2015, Scott kể lại rằng khi lần đầu tiên ông đề cập ý tưởng về
phim
2049 với Ford, nam diễn viên nói, "Vớ vẩn."
Rick Deckard của Harrison Ford trong Blade Runner năm 1982
|
Ford bảo, "Tôi không nhớ mình nói vậy, nhưng tôi không biết lúc anh ấy
nói thì tôi đã uống cà phê chưa. Kịch bản là điều thuyết phục tôi."
"Ai nhập cuộc thảy đều e ngại," biên kịch Green nói, anh có bốn dự án lớn khác trong năm 2017 (
American Gods,
Logan,
Alien: Covenant, và
Murder on the Orient Express).
"Triển vọng lặn trở vào bộ phim yêu thích của nhiều người, có cả tôi
trong đó — chúng tôi đều muốn đảm bảo mình đang làm đúng. Đừng đùa với
lửa, và đừng chơi với diêm; bạn đang chơi với pháo M-80 ở sân sau, và
bạn đã mất ngón tay cái rồi."
Sau đó, một sự đình trệ. Năm 2014, cam kết đạo diễn một phim khác của Scott đã làm rõ rằng ông sẽ không thể chỉ đạo
2049.
Thay vì vậy, ông trở thành điều hành sản xuất, và Johnson và Kosove
tiếp cận Villeneuve. Vào thời điểm đó, Villeneuve vẫn chưa là cái tên
cửa miệng: Anh trải qua một thập niên làm một loạt các phim gai góc
tuyệt vời tê tái mà quặn thắt, như phim chính kịch chiến tranh có tầm
ảnh hưởng
Incendies (ái chà), phim bắt cóc-trẻ em
Prisoners 2013 (ui), và bộ phim ly kỳ nghẹt thở về cuộc chiến chống ma túy
Sicario năm
2015 (ôi trời). Đấy là những bộ phim trong đó bạo lực như mầm bệnh, lây
lan qua cơ thể của một người hoặc toàn bộ lịch sử của một quốc gia với
những hậu quả tàn phá lâu dài — nhất là đối với các nhân vật ở đầu cuối.
Và với bộ phim
Arrival được đề cử Phim hay nhất năm ngoái — về
một nhà ngôn ngữ học (Amy Adams) giao tiếp với một cặp đôi người ngoài
hành tinh giống bạch tuộc — Villeneuve đã chứng tỏ anh là một trong số
ít nhà làm phim có thể làm phim khoa học giả tưởng đem lại cảm nhận kỳ
ảo và thực đến cùng cực. Kosove, đã sản xuất
Prisoners, tin rằng tính hai mặt là cần thiết cho 2049. "
Blade Runner
luôn đặt trong thể loại khoa học giả tưởng, nhưng chúng tôi thực sự cho
rằng nó là phim ‘noir’ nhiều hơn," anh nói. "Và nếu bạn đã xem
Prisoners và
Sicario, bạn biết ngày nay không có nhà làm phim nào làm phim ‘noir’ hay hơn Denis cả."
"Thời tiết đã giúp tôi nghĩ ra rất nhiều cho bộ phim này," đạo diễn
Denis Villeneuve nói. "Tôi bắt đầu từ giả thuyết rằng hệ sinh thái đã
sụp đổ, và tôi bắt đầu xây dựng một Los Angeles mới."
|
Nhưng Villeneuve có một số lý do (rất con người) để
không nhận công việc. Anh vừa hoàn thành
Sicario và sắp bắt đầu
Arrival, và anh không chắc mình có thể đảm nhận phim khác được ngay hay không. Vả lại,
Blade Runner
là một trong những bộ phim yêu thích của Villeneuve, và anh nghi ngờ
rằng việc thâm nhập lại thế giới phức tạp của bộ phim có thể là "một ý
tưởng siêu tồi tệ." Ban đầu anh nói không, nhưng khi các nhà sản xuất
trở lại với một đề nghị khác để đáp ứng lịch làm việc của Villeneuve,
anh thay đổi ý định và quyết định chấp nhận rủi ro. "Tôi tự nhủ: “Nếu có
lúc nào tôi làm một phim quy mô cỡ này, nhất định phải là phim có ý
nghĩa với tôi."
Về sau, tôi hỏi Scott điều gì về Villeneuve khiến ông thoải mái giao chìa khóa
Blade Runner yêu quí của ông.
“Tôi đâu có thoải mái,” ông đáp.
Không ư?
“Không.
Nhưng chờ tôi đạo diễn chỉ gây cản trở bộ phim mà thôi, và cho đến giờ,
Denis là lựa chọn tốt nhất của chúng tôi." Ông mỉm cười, trước khi nói
thêm một cách khó hiểu, "Phải mất một mới thấy một."
Một hộp đêm quyến rũ như Vegas trong Blade Runner 2049
|
Việc sản xuất bắt đầu ở Budapest vào mùa hè năm 2016, và trong gần 100
ngày, việc quay phim choán hết một cơ sở 10 tầng như khu học xá. Không
giống hồi làm bộ phim
Blade Runner đầu đầy tai tiếng, mà Ford từng
miêu tả là "chó lắm", trường quay của Villeneuve sôi nổi, hiệu quả một
cách dễ thương. (Ít ra là vào ngày tôi đến thăm.) Ngay cả khi quay hết
“đúp” này đến “đúp” khác cái cảnh phim mà Gosling cứ sợ con chó tấn
công, Ford có vẻ thực sự...
khoái chí? "À, nếu trông tôi có vẻ
thế, thì chắc là thế," anh nói, giọng anh vẫn đáng tin cậy. "Tôi không
mất quá nhiều thời gian để cố làm ra vẻ như mình đang
vui."
Hàng
triệu đôla đổ vào việc tái hiện thần thái của bộ phim gốc — và tất cả
những gì không quá dựa vào thủ thuật phông xanh. "Rất nhiều phim khoa
học giả tưởng trông na ná nhau, bởi vì hiệu ứng đó được làm như vẹt,”
nhà quay phim của 2049, Roger Deakins, cho biết. "Chúng tôi khao khát
tạo ra thế giới của riêng mình." Ví dụ, bước tới ngó qua khung cửa của
Deckard, và bạn thấy những tòa nhà cao chọc trờ mờ mờ bao quanh nhà ông
là phông nền minh họa cao chót vót bao quanh trường quay. Gần đó, một
hộp đêm quyến rũ khổng lồ như Vegas, trong đó một Elvis thời gầy nhom,
vây quanh là những cô gái trang điểm lông vũ và chai rượu champagne,
ngân nga ca khúc
Can’t Help Falling in Love. Bên ngoài, có một
khoảnh đất lớn lô nhô những cột xà hoen rỉ và thùng dầu, cùng một nhà
kho mà các thành viên đoàn phim vứt những "spinners" — những chiếc xe
cảnh sát giống như con bọ mà Deckard sử dụng để di chuyển trong phim đầu
và đã được nâng cấp cho phần tiếp theo. "Chúng tôi muốn chiếc xe được
định hình đồ họa, góc cạnh mạnh mẽ hơn,” nhà dựng cảnh Dennis Gassner,
đã giám sát việc thiết kế chiếc ‘spinner’ mới, nói: "Đó là một thế giới
khắc nghiệt hơn trong phim đầu, cả về môi trường lẫn phong cách nghệ
thuật."
Một chiếc 'spinner' mới được định hình đồ họa, góc cạnh mạnh mẽ hơn cho phần tiếp theo
|
Sự khắc nghiệt đã tạo dấu ấn trong rất nhiều tác phẩm trước của
Villeneuve — mặc dù chính vị đạo diễn này cũng không hiểu từ đâu mà ra.
Nếu phim của anh cứ theo một khuôn mẫu, dù là ngẫu nhiên, "thì rõ ràng
điều đó đang nói rất nhiều về tôi," anh nói. Có thể, anh đoán, "Tôi là
một kẻ lập dị thường xuyên bị sốc với thế giới." Đó là một phần lý do
khiến anh bị cuốn hút vào một tương lai chán nản được khắc họa trong
Blade Runner của Scott. Đâu phải là quá gàn dở khi cố gắng vạch ra mối liên hệ giữa VidPhone của Deckard trong
Blade Runner
với FaceTime của chúng ta; từ rắn và cú nhân tạo với những sinh vật
được biến đổi trong phòng thí nghiệm; từ người nhân bản kiểu-cận chiến
đến rôbô quân sự được triển khai trên khắp thế giới. Thật vậy, bộ phim
đầu không chỉ làm tiền đề cho tương lai khả dĩ của chúng ta mà còn là
cảnh báo về mức độ tàn bạo khó sống của tương lai đó.
“Sự dữ dội
duy nhất tôi đã gặp trong đời mình là mùa đông,” Villeneuve nói vào một
buổi chiều mùa hè trong văn phòng nhỏ kiểu Kubrick-trắng tại cơ sở của
Sony ở Los Angeles, vài tháng sau khi
2049 đóng máy. Tuy cái
nắng xế chiều chiếu cửa sổ, vị đạo diễn không thể không nghĩ đến thời
tiết khắc nghiệt mà anh trải qua hổi nhỏ — sáu hoặc bảy tháng tuyết rơi,
rúc trong nhà bố mẹ ở một thị trấn nhỏ vùng nông thôn Quebec, từ cửa sổ
nhà bếp có thể nhìn thấy một nhà máy điện hạt nhân. "Và thời tiết đã
giúp tôi nghĩ ra rất nhiều cho bộ phim này. Tôi bắt đầu từ giả thuyết
rằng hệ sinh thái đã sụp đổ, và tôi bắt đầu xây dựng một Los Angeles
mới."
Rất nhiều công nghệ ở trung tâm của cả phim đầu lẫn phần tiếp theo —
trí tuệ nhân tạo tiên tiến, công nghệ biến đổi gene — không còn chỉ là
hư cấu nữa
|
Trong phòng biên tập gần đó, Villeneuve cho tôi xem một cảnh ngắn từ
2049, trong đó một đặc vụ K người đầy máu me lái chiếc spinner của anh bay qua một loạt
ngôi nhà thấp, san sát, trước khi hướng đến tổng hành dinh Sở cảnh sát
Los Angeles mờ mờ phía xa. Khi vào bên trong, anh được đưa vào một căn
phòng màu trắng và phải trải qua cuộc kiểm tra căng thẳng hậu chấn
thương tâm lý, một nhân vật vô hình tra hỏi anh. Sau đó anh làm một
chuyến thăm trung tâm thành phố Los Angeles, trong tuyết rơi tầm tã.
Ngay cả trên màn hình nhỏ, cảnh phim đó thật hấp dẫn, tao nhã, bí hiểm.
Đó là
Blade Runner.
Rối loạn hệ sinh thái cũng đóng một
vai trò trong bộ phim gốc, vốn được đặt trong một thế giới mà động vật
thì tuyệt chủng. Nhưng những cảnh báo về môi trường của bộ phim, Fancher
nói, "được thì thầm. Tôi không chắc người ta có nghe được không." Cách
tiếp cận của Villeneuve lớn tiếng hơn: Los Angeles của
2049 là
nơi có hàng rào rộng lớn, được gọi là Bức tường Sepulveda, chống lại
nước biển dâng lên. Với đủ loại khủng hoảng môi trường trong đời thực mà
California đã gánh chịu mấy năm qua — hạn hán và cháy rừng, với các
cuộc tranh luận tất yếu về đê chắn sóng — có cảm giác mọi thứ quá gần
với thực tại của chúng ta rồi. Đủ để bạn băn khoăn liệu khán giả có sẵn
sàng cho một bộ phim về tận thế gần kề từ một đạo diễn nổi
tiếng có thủ pháp không hề nhẹ nhàng.
Nếu khán giả phải mất nhiều năm mới kết nối được với tương lai trong Blade Runne đầu, thì họ sẽ phản ứng thế nào với phiên bản sự tình trở nên còn tồi tệ hơn nữa của Villeneuve?
|
Phim ra rạp vào thời gian gần cuối của một trong những năm bồn chồn
nhất, thừa mứa nỗi sợ hãi nhất trong ký ức gần đây. (Tất nhiên, những
nỗi sợ của bạn có thể hoàn toàn trái ngược với những nỗi sợ hãi của tôi —
vậy mới làm cho mọi chuyện càng đáng sợ hơn.) Rất nhiều công nghệ ở
trung tâm của cả phim đầu lẫn phần tiếp theo — trí tuệ nhân tạo tiên
tiến, công nghệ biến đổi gene — không còn chỉ là hư cấu nữa. Cái tương
lai hậu tận thế từng xa xôi đó dường như sát rạt đời sống thường nhật,
có nghĩa là bộ phim tiếp theo của Villeneuve không chỉ là một cuộc phiêu
lưu khác nữa trong thế giới
Blade Runner; mà đó là một sự nhắc
lại đen tối hơn về tương lai của chính chúng ta có thể ra sao. Fancher
nói về thế giới tương lai mà ông, Scott, và Philip K. Dick dựng lên rất
nhiều năm trước, "Sẽ có người nhân bản."
Chúng ta vẫn chưa tới đó. Nhưng chính sự sát sạt này có thể giúp
2049 thành công trong khi
Blade Runner
đầu tiên đã thất bại. Khoa học giả tưởng mạnh mẽ nhất luôn sử dụng cảnh
quan tương lai để giúp chúng ta xử lý những nỗi lo lắng của chúng ta về
hiện tại, và những kết quả ác mộng mà khán giả không muốn can dự hổi
năm 1982 giờ đây được thảo luận, tranh cãi, và số người can dự vào ngày
càng tăng hơn bao giờ hết. Người Mỹ ngày nay cảm nhận những nỗi lo lắng
hiện sinh ở cốt lõi thế giới
Blade Runner sâu sắc hơn và toàn
diện hơn hầu hết bất cứ ai hồi năm 1982 có thể tưởng tượng được, và do
đó một phần tiếp theo tăng gấp đôi về thế giới hậu tận thế có thể cộng
hưởng theo những cách mà phim đầu không bao giờ làm được. Gosling nói,
"Sức mạnh của khoa học giả tưởng, và điều tích cực về nó, là bạn có thể
trải nghiệm tình huống xấu nhất mà không phải thực sự sống qua." Và khi
bạn cân nhắc rằng
Blade Runner 2049 ra mắt một vài tháng sau những bom tấn giả tưởng như
Alien: Covenant,
Logan, và
War for the Planet of the Apes, rõ ràng là số phận sáng chói mà
Flash Gordon
đã có sẽ bốc hơi. Thời buổi bây giờ, dường như chúng ta thích các kịch
bản trường hợp tồi tệ nhất, một phần bởi vì khi so ra thì cuộc sống hiện
tại của chúng ta có vẻ rất lành.
Như một người máy từ
Blade Runner diễn giải: Thật là một trải
nghiệm để sống trong sợ hãi, cả trong khoa học giả tưởng và trong hiện
thực trần tục thiếu sót của chúng ta. Giống như bộ phim đầu tiên,
Blade Runner 2049 có
thể giúp làm sáng tỏ chuyện sẽ đi về đâu, và cho phép chúng ta một lần
nữa nhìn thấy những thứ mà chúng ta sẽ không tin — bất luận những thứ đó
có vẻ không giống con người đến thế nào đi nữa.
Dịch: © Hải Đăng @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Wired
* Cyberpunk xuất hiện từ những năm 1980, ghép từ hai từ cybernetics
(điều khiển học) và punk (giang hồ). Thuật ngữ này do nhà văn Bruce
Bethke sáng chế năm 1980 khi xuất bản cuốn truyện ngắn
Cyberpunk.
Khung thời gian của thể loại này thường là tương lai gần, bối cảnh là
xã hội hậu tận thế nghèo khổ, khốn cùng. Các chủ đề thường gặp bao gồm
công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, đặc biệt công nghệ internet,
không gian mạng được hiển thị thành hình ảnh, trí thông minh nhân tạo,
điều khiển học, xã hội hậu dân chủ nơi các tập đoàn có sức ảnh hưởng hơn
chính phủ. Nhân vật chính thường mang vẻ bất mãn.
Blade Runner được coi là ví dụ điển hình cho dòng cyberpunk. (Theo bookism.com.vn)