Nhân vật & Sự kiện

Thử giải mã vì sao phim Hàn gây nghiện khán giả quốc tế

06/04/2016

Dư Nhất Giới, sinh viên 25 tuổi người Trung Quốc đang theo học tại đại học Kookmin, một người hâm mộ phim Hàn lâu năm, đã lập tức yêu thích giải trí Hàn Quốc sau khi xem Full House (Ngôi nhà hạnh phúc) với Rain và Song Hye Kyo phát sóng năm 2004.

Từ đó, cô xem hết những phim nổi tiếng của Hàn Quốc và dần dần phát triển mối quan tâm đến việc sản xuất phim truyền hình.

“Tôi nghĩ tôi sẽ đến Hàn Quốc (để học) khi tôi xem My Girl năm 2005, bộ phim đó thành công lớn ở Trung Quốc, có sự góp mặt của Lee Jun Ki và Lee Da Hae,” Dư cho biết qua một cuộc phỏng vấn trên điện thoại.

Một cảnh trong Nàng Dae Jang Geum (2003)

Cô tới Hàn Quốc năm 2012 và học chuyên ngành hành chính công sau đại học. Vào kỳ nghỉ hè và nghỉ đông cô trở lại Trung Quốc và thực tập ở một số công ty truyền hình phát thanh. Sau đó cô quyết định theo đuổi một tấm bằng sau đại học ngành truyền hình và điện ảnh, biến tình yêu phim ảnh thành hành trình tìm kiếm sự nghiệp chuyên nghiệp trong ngành truyền hình và điện ảnh.

“Tôi muốn học sản xuất phim điện ảnh và truyền hình Hàn Quốc tiên tiến ở đây,” Dư nói.

Câu chuyện của cô là một ví dụ của ảnh hưởng tích cực và hiệu quả mà phim truyền hình Hàn có thể đem lại sau hơn một thập kỷ phổ biến bên ngoài biên giới Hàn Quốc.

Từ đầu những năm 2000, phim truyền hình Hàn đã phát triển khủng khiếp, là mũi nhọn của làn sóng văn hóa Hàn, hay hallyu, khắp thế giới.

Một cảnh trong Winter Sonata (2002) [Ảnh: KBS]

Bộ phim đầu tiên thực sự làm dậy lên làn sóng Hàn là Winter Sonata (Bản tình ca mùa đông) năm 2002, đặc biệt nổi tiếng với những những người phụ nữ trung niên ở Nhật Bản.

Bộ phim đã tạo ra lượng người hâm mộ khổng lồ ở Nhật Bản và đưa hai diễn viên nam nữ chính – Bae Yong Joon và Choi Ji Woo, với biệt danh trang trọng Yon-sama (Ngài Yon) và Jiwo Hime (Tiểu thư Jiwoo) – thành những ngôi sao hàng đầu châu Á.

Thành công lớn một năm sau đó là bộ phim cổ trang Jewel in the Palace phát sóng năm 2003 trên kênh MBC. Đây là bộ phim đầu tiên thu hút sự quan tâm bên ngoài Đông Á. Bộ phim được bán tới hơn 90 quốc gia, từ Trung Quốc, Nhật Bản tới những nơi xa xôi như Kazakhstan và Hungary.

Ở Tajikistan, Jewel in the Palace đạt tới 70% tỷ suất xem đài khi mới phát sóng năm 2007 và chiếu lại năm lần. Ở Kazakhstan, sự nổi tiếng của Jewel in the Palace được tiếp nối bởi một loạt thành công của những phim cổ trang khác như Jumong (2006), Queen Seodeok (2009) và Dong Yi (2010), theo Global Hallyu 2015, một báo cáo về xu hướng văn hóa đại chúng Hàn Quốc bùng nổ ở nước ngoài.

Cảnh trong phim Dong Yi (2010)

Phim cổ trang Hàn Quốc đã khiến nhiều người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau yêu thích văn hóa, trang phục, ẩm thực truyền thống và phong cảnh Hàn Quốc, cuối cùng thu hút số lượng du khách tới Hàn Quốc ngày càng tăng.

Phim Hàn rất nổi tiếng ở Đông Á và Đông Nam Á, nơi những người xem châu Á dễ dàng liên hệ với những giá trị truyền thống Á Đông và hình ảnh của một xã hội có tôn ti trật tự được mô tả trong phim Hàn.

“Văn hóa Myanmar có nhiều điểm chung với văn hóa Hàn Quốc khi chúng cùng đề cao giá trị gia đình, tôn trọng bề trên và hiếu khách. Nhưng điểm tương đồng văn hóa và phong tục, suy nghĩ cũng như ngôn ngữ giữa hai quốc gia làm cho người Myanmar đón nhận phim Hàn Quốc dễ dàng,” Global Hallyu 2015 nhận định.

Oh In Gyu, giảng viên Korea University, giám đốc Hiệp hội thế giới Nghiên cứu Làn sóng Hallyu, cho rằng có một yếu tố khác khiến phim Hàn có thể vượt ra khỏi biên giới và sắc tộc.

Áp phích My Love from the Star (2013) [Ảnh: SBS]

“Phim Hàn thể hiện tốt nhất những cảm xúc mà phụ nữ quốc gia nào cũng có thể chia sẻ. Đó chính là cảm xúc u buồn,” Oh In Gyu cho biết.

“Trạng thái u buồn có thể biểu hiện thành một trạng thái phân biệt của Hàn Quốc gọi là ‘han’,” ông nói.

Han có thể là một quan niệm tâm lý phức tạp, nhưng nó nói đến nỗi phiền muộn chất đống chưa được giải thoát. Nó từng được dùng để mô tả trạng thái tâm lý của phụ nữ Hàn Quốc lớn tuổi và sống trong một xã hội gia trưởng, phân tầng.

Theo ông Oh, cơn sốt phim Hàn Quốc chủ yếu do những người xem nữ giới khắp thế giới chia sẻ xúc cảm này.

“Cho dù là phim cổ trang, phim lãng mạn bi kịch hay phim có bạo lực, phần lớn người xem phim Hàn là phụ nữ,” Oh In Gyu cho biết.

Một cảnh trong The Heirs (2013) [Ảnh: SBS]

Trong phim Hàn Quốc, nhân vật nữ chính vượt qua nhiều khó khăn trước khi tìm được tình yêu đích thực và đạt được sự nghiệp thành công. Trong Jewel in the Palace, nhân vật nữ chính Jang Geum, xuất thân từ gia đình hèn mọn, bước vào hoàng cung để trở thành người hầu cho vua chúa và hoàng phi. Nàng nỗ lực từ một phụ bếp thành một lang y hoàng cung.

“Phụ nữ cảm nhận được sự giải thoát khi xem nhân vật chính trưởng thành.”

Từ năm 2010 tới 2013, Oh In Gyu thực hiện một khảo sát thú vị ở Israel, Pháp và Anh để kiểm tra phản ứng khác nhau của nam và nữ giới khi xem phim Hàn Quốc. Ông chiếu năm bộ phim truyền hình khác nhau và quan sát phản ứng của người xem.

“Nam giới thể hiện ít quan tâm tới cốt truyện, trong khi nữ giới nhanh chóng cuốn theo các nhân vật.”

Một yếu tố khác thu hút người xem nữ giới toàn cầu đối với phim Hàn Quốc đó là hình tượng nam lý tưởng được thể hiện trong phim, ông Oh giải thích.

“Đàn ông Hàn Quốc tinh tế, tốt bụng và sành điệu trong phim ảnh. Họ là những mẫu người lý tưởng đối với đa số chị em.”

Song Joong Ki, trái, và Song Hye Hyo - cặp đôi mới nhất lan tỏa Làn sóng Hàn

Bộ phim Hàn Quốc nổi tiếng nhất chiếu ở Argentina là Stairway to Heaven (Nấc thang lên thiên đường), chiếu năm 2003 ở Hàn Quốc. Một bài báo đăng ngày 9/3 năm nay, trên tờ Clarin của Argentina chọn đây là một trong những chương trình truyền hình được xem nhiều nhất, với tỷ suất người xem 10%, và viết về sự nổi tiếng của phim trong các gia đình Argentina. Bộ phim có nhân vật nam chính do Kwon Sang Woo thủ vai, người hết lòng với mối tình đầu ốm yếu từ thủa ấu thơ của mình và bảo vệ cô tới khi cô qua đời với lời hứa tình yêu vĩnh hằng.

Dịch: © Ngô Bình @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Korea Herald