Tin tức

Vì sao phim về điện ảnh có thể định hình cuộc đua Oscar năm nay

16/10/2019

Đây có thể là câu chuyện được nhai đi nhai lại nhiều nhất mùa giải thưởng: rằng Hollywood — giống loài tự luyến nhất trần đời — yêu phim về chính mình.

Rằng họ sẽ tự vỗ lưng mình (qua bỏ phiếu Oscar) bất cứ khi nào có thể. Và với điện ảnh là sở thích cố hữu của, đương nhiên là các nhà làm phim, thì thể loại này luôn luôn có một con số lựa chọn nhất định.

Quentin Tarantino đã làm người ta tròn mắt với Once Upon a Time… in Hollywood, tác phẩm thời kỳ phong phú, tươi tốt đắm mình ở Los Angeles vào khoảng năm 1969

Tuy nhiên không phải Singin’ in the Rain, hay A Star Is Born, hay Sunset Blvd., hay những ví dụ xuất sắc gần đây như The AviatorL.A. Confidential thắng được giải thưởng lớn nhất của ngành. Không phim nào trong thể loại này, thực tế, cho đến khi bộ phim câm đen trắng The Artist của Michel Hazanavicius ra mắt năm 2011 làm được.

The Artist đã khiến khán giả chìm đắm trong nỗi nhớ ma thuật điện ảnh đến nỗi đã đi được đến chiến thắng, mặc dù kém các yếu tố thương mại. Đại khái nó đã mở ra một phong trào: Sau đợt hạn hán kéo dài 84 năm, phim chiến thắng giải Phim hay nhất trong bốn năm (từ 2012-2015) là những bộ phim về điện ảnh. Những cái tên chiến thắng theo sau The Artist cũng khó lòng bán vé: Argo, đã giành chiến thắng mặc dù (hoặc có lẽ vì) Ben Affleck hụt đề cử đạo diễn xuất sắc nhất, và Birdman, phim thử nghiệm và hài kịch đen tối của Alejandro G. Iñárritu. Lẽ đời thường cuối cùng đã có cơ sở để bảo vệ luận điểm của mình. Đó là lý do tại sao La La Land lại được tung hô năm 2017 — tất nhiên, cho đến khi, tất nhiên, đó là khi, (một cách nhầm lẫn, lạ lùng, tai tiếng) nó đã được tuyên bố là phim chiến thắng.

Brad Pitt (trái) có vẻ sẽ tranh giải ở hạng mục diễn viên phụ, còn DiCaprio cũng là một ứng cử viên mạnh mẽ trong hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất

Câu chuyện này có một phần lộn xộn, nói theo một cách khác. Nhưng điều đó không làm thay đổi thực tế rằng mùa giải thưởng sắp tới có một lượng lớn các phim tập trung vào điện ảnh cao quý.

Đầu mùa hè này, Quentin Tarantino đã làm người ta tròn mắt với Once Upon a Time… in Hollywood (OUATIH), một ứng viên chắc chắn. OUATIH là tác phẩm thời kỳ phong phú, tươi tốt đắm mình ở Los Angeles vào khoảng năm 1969; tất cả mọi người từ Steve McQueen đến Roman Polanski đến Bruce Lee (gây tranh cãi) đều xuất hiện, cũng như Sharon Tate (do Margot Robbie thủ vai) trong một vai trò lớn hơn. Nhưng câu chuyện hư cấu này chủ yếu theo chân Rick Dalton (Leonardo DiCaprio), một diễn viên truyền hình mờ nhạt, và diễn viên đóng thế cũng là bạn ăn chơi cùng, Cliff Booth (Brad Pitt). Với sự ca ngợi của giới phê bình và thành tích phòng vé mạnh mẽ bước vào mùa thu, bộ phim sớm là ứng viên Oscar hàng đầu.

Toàn bộ tác phẩm Pain and Glory là một cú hích cho điện ảnh, nhưng đặc biệt là màn trình diễn của Banderas, ghi lại những ám ảnh, sắc thái và tài năng độc đáo của một nhà làm phim bẩm sinh

Rồi có sự tò mò về Tarantino khi tuyên bố ông (gần như) thôi không làm đạo diễn nữa, và Pitt mang đến một màn trình diễn tốt nhất trong sự nghiệp trong một vai mà, nếu không hoàn toàn là về bản thân như Michael Keaton, trong Birdman, nhưng vẫn khá nhiều điều thú vị. (Anh có vẻ sẽ tranh giải ở hạng mục diễn viên phụ.) Thêm nữa, mặc dù bộ phim ghi lại tốt và thể hiện đam mê mãnh liệt với lịch sử điện ảnh, OUATIH đánh dấu bộ phim đầu tiên của Tanrantino tập trung vào Hollywood; nó được thực hiện với một mức độ đặc biệt, sự ưu ái đến mức như sờ thấy được. Tất cả điều này cho thấy không chỉ là một cái tên xứng đáng tham gia vào thể loại phụ này, mà một phim mang câu chuyện hay ho ít ai hiểu thành một chiến binh giải thưởng.

DiCaprio cũng là một ứng cử viên mạnh mẽ trong hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, và anh có thể sẽ đối đầu với một vài diễn viên khác đóng vai những người làm kinh doanh giải trí. Trên mặt trận hư cấu (về bản thân), có Antonio Banderas, vẫn đang chờ đề cử Oscar đầu tiên của mình; anh đóng vai chính trong Pain and Glory của Almodóvar (ra mắt vào ngày 4/10) với tư cách là một phiên bản của đạo diễn, suy ngẫm về tình yêu của anh đối với phim ảnh, việc định hình danh tính và giới tính, và mối quan hệ của anh với mẹ khi anh phải vật lộn với sự già nua và trầm cảm. Toàn bộ tác phẩm là một cú hích cho điện ảnh, nhưng đặc biệt là màn trình diễn của Banderas, ghi lại những ám ảnh, sắc thái và tài năng độc đáo của một nhà làm phim bẩm sinh. Chắc chắn rồi, nó là một bộ phim Tây Ban Nha, nhưng những người biết và đánh giá cao nghề làm phim — xem nào: toàn bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh — nên cảm thấy vô cùng xúc động trước màn tôn vinh nghệ thuật này.

Eddie Murphy đóng vai Rudy Ray Moore, ngôi sao nghệ sĩ hài-nhạc sĩ-nhà làm phim thể loại Blaxploitation trong Dolemite Is My Name

Về tác phẩm tiểu sử, Eddie Murphy đóng vai Rudy Ray Moore, ngôi sao nghệ sĩ hài-nhạc sĩ-nhà làm phim thể loại Blaxploitation,* trong Dolemite Is My Name (ra mắt vào cuối năm nay). Moore là biểu tượng được sùng bái hơn cả những người khổng lồ lịch sử — hơn cả, ví như, Freddie Mercury hay Winston Churchill, được hóa thân để rồi giành giải Oscar cho Rami Malek và Gary Oldman, lần lượt trong hai năm gần đây — nhưng ông là một nhân vật Hollywood khác biệt, có một không hai, để có thể tái hiện được. Không hại gì khi vai này sẵn sàng tạo điều kiện cho sự trở lại màn ảnh rộng của Murphy, đã biến mất khỏi điện ảnh chính kịch sau khi mất giải Oscar cho Dreamgirls năm 2007. Anh còn có các biên kịch kinh nghiệm trong lĩnh vực này nữa: Scott Alexander và Larry Karaszewski, những biên kịch đằng sau Ed Wood, bộ phim đưa Martin Landau thắng giải Oscar Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất năm 1995 (anh đóng vai diễn viên phim kinh dị Bela Lugosi).

Nhưng ít nhất Murphy đã được đề cử gần đây hơn Renée Zellweger. Lần cuối cùng được công nhận khi cô thắng giải Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất năm 2004 cho Cold Mountain, Renée Zellweger đã sẵn sàng cho sự trở lại giới quyền quý hoành tráng tương tự với bộ phim Judy (khởi chiếu ngày 27/9). Trailer cho bộ phim tiểu sử Judy Garland một mình tạo tiếng vang, đưa Zellweger ra tiên phong cuộc bàn luận về giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất (rất sớm). Bộ phim lấy bối cảnh vào cuối thập niên 60 (giống như OUATIH), gần cuối cuộc đời Garland. Chân dung của các nữ diễn viên quá cố không có xu hướng chuyển thành việc mang tượng vàng về nhà — Barbra Streisand đóng Fanny Brice và Cate Blanchett đóng Katharine Hepburn là hai ngoại lệ đáng chú ý — ngay cả khi những người bỏ phiếu yêu thích sự phục hưng sự nghiệp.

Trailer cho bộ phim tiểu sử Judy Garland một mình tạo tiếng vang, đưa Zellweger ra tiên phong cuộc bàn luận về giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất

Nhưng hãy nhớ rằng: Garland chỉ có đề cử Oscar Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất với A Star Is Born năm 1954, trong đó cô đóng vai một người chiến thắng Oscar giả tưởng. Zellweger đi đến cùng câu chuyện cảm giác như công lý — theo nghĩa Hollywood nhất của từ này.

Dịch: © Ngô Bình @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Entertainment Weekly


* Thuật ngữ “blaxploitation” được hình thành từ hai từ “black” và “exploitation”: thể loại phim khai thác hình ảnh của người da đen nhằm lôi kéo khán giả người da đen đến rạp. Thể loại blaxploitation phát triển rầm rộ nhất trong những năm 70 trong nỗ lực kể những câu chuyện “khác” về cộng đồng người da đen, và là sự đáp trả của các đạo diễn Holywood đối với chỉ trích rằng các nhân vật da đen trong phim từ xưa đến nay luôn bị gán cho vai phản diện.