Đây có thể là câu chuyện được nhai đi nhai lại nhiều nhất mùa giải
thưởng: rằng Hollywood — giống loài tự luyến nhất trần đời — yêu phim về
chính mình.
Rằng họ sẽ tự vỗ lưng mình (qua bỏ phiếu Oscar) bất cứ khi nào có thể.
Và với điện ảnh là sở thích cố hữu của, đương nhiên là các nhà làm phim,
thì thể loại này luôn luôn có một con số lựa chọn nhất định.
Quentin Tarantino đã làm người ta tròn mắt với Once Upon a Time… in Hollywood, tác phẩm thời kỳ phong phú, tươi tốt đắm mình ở Los Angeles vào khoảng năm 1969
|
Tuy nhiên không phải
Singin’ in the Rain, hay
A Star Is Born, hay
Sunset Blvd., hay những ví dụ xuất sắc gần đây như
The Aviator và
L.A. Confidential thắng được giải thưởng lớn nhất của ngành. Không phim nào trong thể loại này, thực tế, cho đến khi bộ phim câm đen trắng
The Artist của Michel Hazanavicius ra mắt năm 2011 làm được.
The Artist
đã khiến khán giả chìm đắm trong nỗi nhớ ma thuật điện ảnh đến nỗi đã
đi được đến chiến thắng, mặc dù kém các yếu tố thương mại. Đại khái nó
đã mở ra một phong trào: Sau đợt hạn hán kéo dài 84 năm, phim chiến
thắng giải Phim hay nhất trong bốn năm (từ 2012-2015) là những bộ phim
về điện ảnh. Những cái tên chiến thắng theo sau
The Artist cũng khó lòng bán vé:
Argo, đã giành chiến thắng mặc dù (hoặc có lẽ vì) Ben Affleck hụt đề cử đạo diễn xuất sắc nhất, và
Birdman,
phim thử nghiệm và hài kịch đen tối của Alejandro G. Iñárritu. Lẽ đời
thường cuối cùng đã có cơ sở để bảo vệ luận điểm của mình. Đó là lý do
tại sao
La La Land lại được tung hô năm 2017 — tất nhiên, cho
đến khi, tất nhiên, đó là khi, (một cách nhầm lẫn, lạ lùng, tai tiếng)
nó đã được tuyên bố là phim chiến thắng.
Brad Pitt (trái) có vẻ sẽ tranh giải ở hạng mục diễn viên phụ, còn
DiCaprio cũng là một ứng cử viên mạnh mẽ trong hạng mục Nam diễn viên
chính xuất sắc nhất
|
Câu chuyện này có một phần lộn xộn, nói theo một cách khác. Nhưng điều
đó không làm thay đổi thực tế rằng mùa giải thưởng sắp tới có một lượng
lớn các phim tập trung vào điện ảnh cao quý.
Đầu mùa hè này, Quentin Tarantino đã làm người ta tròn mắt với
Once Upon a Time… in Hollywood (
OUATIH), một ứng viên chắc chắn.
OUATIH là
tác phẩm thời kỳ phong phú, tươi tốt đắm mình ở Los Angeles vào khoảng
năm 1969; tất cả mọi người từ Steve McQueen đến Roman Polanski đến Bruce
Lee (gây tranh cãi) đều xuất hiện, cũng như Sharon Tate (do Margot
Robbie thủ vai) trong một vai trò lớn hơn. Nhưng câu chuyện hư cấu này
chủ yếu theo chân Rick Dalton (Leonardo DiCaprio), một diễn viên truyền
hình mờ nhạt, và diễn viên đóng thế cũng là bạn ăn chơi cùng, Cliff
Booth (Brad Pitt). Với sự ca ngợi của giới phê bình và thành tích phòng
vé mạnh mẽ bước vào mùa thu, bộ phim sớm là ứng viên Oscar hàng đầu.
Toàn bộ tác phẩm Pain and Glory là một cú hích cho điện
ảnh, nhưng đặc biệt là màn trình diễn của Banderas, ghi lại những ám
ảnh, sắc thái và tài năng độc đáo của một nhà làm phim bẩm sinh
|
Rồi có sự tò mò về Tarantino khi tuyên bố ông (gần như) thôi không làm
đạo diễn nữa, và Pitt mang đến một màn trình diễn tốt nhất trong sự
nghiệp trong một vai mà, nếu không hoàn toàn là về bản thân như Michael
Keaton, trong
Birdman, nhưng vẫn khá nhiều điều thú vị. (Anh có
vẻ sẽ tranh giải ở hạng mục diễn viên phụ.) Thêm nữa, mặc dù bộ phim
ghi lại tốt và thể hiện đam mê mãnh liệt với lịch sử điện ảnh,
OUATIH
đánh dấu bộ phim đầu tiên của Tanrantino tập trung vào Hollywood; nó
được thực hiện với một mức độ đặc biệt, sự ưu ái đến mức như sờ thấy
được. Tất cả điều này cho thấy không chỉ là một cái tên xứng đáng tham
gia vào thể loại phụ này, mà một phim mang câu chuyện hay ho ít ai hiểu
thành một chiến binh giải thưởng.
DiCaprio cũng là một ứng cử
viên mạnh mẽ trong hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, và anh có
thể sẽ đối đầu với một vài diễn viên khác đóng vai những người làm kinh
doanh giải trí. Trên mặt trận hư cấu (về bản thân), có Antonio
Banderas, vẫn đang chờ đề cử Oscar đầu tiên của mình; anh đóng vai chính
trong
Pain and Glory của Almodóvar (ra mắt vào ngày 4/10) với
tư cách là một phiên bản của đạo diễn, suy ngẫm về tình yêu của anh đối
với phim ảnh, việc định hình danh tính và giới tính, và mối quan hệ của
anh với mẹ khi anh phải vật lộn với sự già nua và trầm cảm. Toàn bộ tác
phẩm là một cú hích cho điện ảnh, nhưng đặc biệt là màn trình diễn của
Banderas, ghi lại những ám ảnh, sắc thái và tài năng độc đáo của một nhà
làm phim bẩm sinh. Chắc chắn rồi, nó là một bộ phim Tây Ban Nha, nhưng
những người biết và đánh giá cao nghề làm phim — xem nào: toàn bộ Viện
Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh — nên cảm thấy vô cùng xúc động
trước màn tôn vinh nghệ thuật này.
Eddie Murphy đóng vai Rudy Ray Moore, ngôi sao nghệ sĩ hài-nhạc sĩ-nhà làm phim thể loại Blaxploitation trong Dolemite Is My Name
|
Về tác phẩm tiểu sử, Eddie Murphy đóng vai Rudy Ray Moore, ngôi sao nghệ
sĩ hài-nhạc sĩ-nhà làm phim thể loại Blaxploitation,* trong
Dolemite Is My Name
(ra mắt vào cuối năm nay). Moore là biểu tượng được sùng bái hơn cả
những người khổng lồ lịch sử — hơn cả, ví như, Freddie Mercury hay
Winston Churchill, được hóa thân để rồi giành giải Oscar cho Rami Malek
và Gary Oldman, lần lượt trong hai năm gần đây — nhưng ông là một nhân
vật Hollywood khác biệt, có một không hai, để có thể tái hiện được.
Không hại gì khi vai này sẵn sàng tạo điều kiện cho sự trở lại màn ảnh
rộng của Murphy, đã biến mất khỏi điện ảnh chính kịch sau khi mất giải
Oscar cho
Dreamgirls năm 2007. Anh còn có các biên kịch kinh
nghiệm trong lĩnh vực này nữa: Scott Alexander và Larry Karaszewski,
những biên kịch đằng sau
Ed Wood, bộ phim đưa Martin Landau
thắng giải Oscar Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất năm 1995 (anh đóng vai
diễn viên phim kinh dị Bela Lugosi).
Nhưng ít nhất Murphy đã được
đề cử gần đây hơn Renée Zellweger. Lần cuối cùng được công nhận khi cô
thắng giải Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất năm 2004 cho
Cold Mountain, Renée Zellweger đã sẵn sàng cho sự trở lại giới quyền quý hoành tráng tương tự với bộ phim
Judy (khởi
chiếu ngày 27/9). Trailer cho bộ phim tiểu sử Judy Garland một mình tạo
tiếng vang, đưa Zellweger ra tiên phong cuộc bàn luận về giải Nữ diễn
viên chính xuất sắc nhất (rất sớm). Bộ phim lấy bối cảnh vào cuối thập
niên 60 (giống như
OUATIH), gần cuối cuộc đời Garland. Chân
dung của các nữ diễn viên quá cố không có xu hướng chuyển thành việc
mang tượng vàng về nhà — Barbra Streisand đóng Fanny Brice và Cate
Blanchett đóng Katharine Hepburn là hai ngoại lệ đáng chú ý — ngay cả
khi những người bỏ phiếu yêu thích sự phục hưng sự nghiệp.
Trailer cho bộ phim tiểu sử Judy Garland một mình tạo tiếng vang,
đưa Zellweger ra tiên phong cuộc bàn luận về giải Nữ diễn viên chính
xuất sắc nhất
|
Nhưng hãy nhớ rằng: Garland chỉ có đề cử Oscar Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất với
A Star Is Born
năm 1954, trong đó cô đóng vai một người chiến thắng Oscar giả tưởng.
Zellweger đi đến cùng câu chuyện cảm giác như công lý — theo nghĩa
Hollywood nhất của từ này.
Dịch: © Ngô Bình @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Entertainment Weekly
* Thuật ngữ “blaxploitation” được hình thành từ hai từ “black” và
“exploitation”: thể loại phim khai thác hình ảnh của người da đen nhằm
lôi kéo khán giả người da đen đến rạp. Thể loại blaxploitation phát
triển rầm rộ nhất trong những năm 70 trong nỗ lực kể những câu chuyện
“khác” về cộng đồng người da đen, và là sự đáp trả của các đạo diễn
Holywood đối với chỉ trích rằng các nhân vật da đen trong phim từ xưa
đến nay luôn bị gán cho vai phản diện.