Tom Holland và Daisy Ridley trong Chaos Walking
|
Khi
Chaos Walking, phim chuyển thể tiểu thuyết ly kỳ hậu tận
thế tuổi mới lớn của Patrick Ness kinh phí 125 triệu USD của Doug Liman,
nhận được ngày phát hành toàn cầu đã bị hoãn dài hạn vào 5 tháng 3, nó
sẽ đặt ra một câu hỏi hóc búa. Câu chuyện của Ness diễn ra trên một hành
tinh đã bị tàn sát — có lẽ từng là Trái Đất — chỉ còn đàn ông sống sót.
Daisy
Ridley là Viola bí ẩn, đâm máy bay xuống cảnh quan nguy hiểm này và
được một người hùng trẻ, Todd (Tom Holland), bảo vệ. Nhưng câu hỏi là:
ngay cả ở những nước mà rạp phim được phép mở cửa, khao khát của công
chúng được xem cặp đôi này vật lộn trong thế giới bị tàn phá có bị đại
dịch đè bẹp không, hay ngược lại tăng mạnh hơn?
Những tương lai
tưởng tượng của điện ảnh, thật lòng mà nói, chưa bao giờ vui vẻ cả. Cho
tác giả thấy vài xã hội lý tưởng cao quý về triết lý trên màn ảnh đi và
tác giả sẽ nhanh chóng chỉ ra sự mục rữa bên dưới — cũng như bộ phim sẽ
làm, nếu nó có hy vọng gì níu được sự chú ý của chúng ta. Tận từ thời kỳ
phim câm, công nghệ làm phim đã vượt lên phía trước, chiếu những ý
tưởng về tư lai để khoe năng lực của bản thân phương tiện này, trong khi
rao giảng những bài học cảnh báo. Thể loại phim hậu tận thế thường hạ
cánh đâu đó giữa thôi thúc có vẻ trái ngược này.
Metropolis (1927) của Fritz Lang
|
Trong tiểu thuyết thế kỷ 19, Jules Verne và HG Wells đã đặt ra những
giới luật về hiểm nguy tiềm tàng của chủ nghĩa toàn trị, ám chỉ những
viễn cảnh phản nhân loại của một xã hội máy móc. Nhưng thời đỉnh cao của
tiểu thuyết hậu tận thế như ta biết thuộc về
Brave New World (1932),
Nineteen Eighty-Four (1949),
Fahrenheit 451 (1953) và
A Clockwork Orange
(1962). Danh sách những tác giả khoa học-giả tưởng thăng hoa trong
truyền thống này còn dài, trong đó John Wyndham, Isaac Asimov, Philip K
Dick và Ursula Le Guin là những cái tên nổi tiếng nhất.
Vậy mà, ám ảnh của điện ảnh với những tương lai công nghiệp ác mộng còn bắt đầu lâu trước đó nữa, như ta thấy từ
Metropolis
(1927) của Fritz Lang. Tưởng tượng ra một cuộc cách mạng của tầng lớp
hạ lưu công nhân đông đúc chống lại tầng lớp thượng lưu kỹ trị, kiệt tác
của Chủ nghĩa Thể hiện Đức này phất cờ hiệu tiềm năng một câu chuyện
ngụ ngôn hậu tận thế có thể được diễn giải theo nhiều nghĩa. Trong khi
Lang bị ảnh hưởng từ các tác phẩm của Marx và Engels, biên kịch Thea von
Harbou về sau gia nhập Đức, Quốc xã, và bộ phim đã hấp dẫn cả Goebbels
và bản thân Hitler.
Mad Max: Fury Road tiêm sự rắn rỏi mới mẻ vào một thể loại thường bị đánh bóng quá mức
|
Nếu ta xem xét cảnh nô lệ, thì không có bước nhảy vọt quá lớn từ
Metropolis tới
The Matrix
(1999), thay thế những chủ nô tàn nhẫn bằng robot ngoài hành tinh, đánh
chén não người để lấy năng lượng cho đến khi một cuộc cách mạng có thể
tháo tung xiềng xích. Nhưng
The Matrix và các phần sau đẩy những nghịch lý của thể loại này lên hàng đầu.
Nỗi
sợ công nghệ được định là giáo lý của nó, nhưng điều tạo sóng rõ ràng
là phần cứng của nó: các tia hiệu ứng gây mệt mỏi, đấu súng “viên đạn
thời gian”. Khiến cho nỗi kinh hoàng được ca tụng về một tương lai kỹ
thuật số trông hơi quá tuyệt so với lợi ích của nó.
Đây là lý do, mới sáu năm trước,
Mad Max: Fury Road
khiến mọi người sửng sốt. Viễn cảnh tương lai đột ngột lại bụi bặm, đầy
năng lượng gợi tình, nhân tính một cách tuyệt vọng. Phim của George
Miller có số lượng cảnh được quay bằng kỹ thuật thực dụng đáng kinh
ngạc, giữ lại sự xuyên suốt với những phần trước trong loạt phim (1979,
1981, 1985), hồi sinh công việc đóng thế gian khổ của nó.
Viggo Mortensen (trái) và Kodi Smit-McPhee trong The Road, dựa trên tiểu thuyết của Cormac McCarthy
|
Phù hợp thay, trông như thể cần nỗ lực phi thường của con người để làm —
số giờ lao động không đếm nổi để lăn lộn trong đất cát thật, thay vì
tạo ra 100 Hugo Weaving ở một bàn điều khiển. Nó giải phóng một sự phấn
khích nguyên thủy mà khán giả gần như đã quên.
Một phim hậu tận
thế có tự trọng cần gì để đủ tiêu chuẩn được coi là thế? Các mác tem đảm
bảo là môi trường đổ nát, mất đi chủ nghĩa cá nhân, và chế độ toàn trị
và/hoặc kiểm soát nghiêm ngặt bằng công nghệ. Nếu ta chỉ đối mặt với yếu
tố đầu tiên, bối cảnh phim sẽ tuyệt đối “hậu-tận thế” (
The Road,
A Quiet Place). Các khuôn mẫu Orwell về tẩy não và quy tắc nỗi sợ đã thường thấm đẫm, đặc biệt trong những phim như
Brazil (1985) của Terry Gilliam, có tựa gốc là
1984½.
Thập
niên 80 là thời kỳ đặc biệt màu mỡ cho điện ảnh hậu tận thế kinh phí
lớn, đưa vào đại chúng những khái niệm như “phim noir tương lai” hay
“phim noir công nghệ”. Thuật ngữ thứ hai còn được dùng làm tên cho hộp
đêm phong cách cyberpunk (phong cách lai tạp con người hạ lưu với công
nghệ cao) trong
The Terminator (1984) của James Cameron. Phim đó và
Blade Runner
(1982) của Ridley Scott lấp đầy tương lai với tội phạm và bóng đêm,
nhìn vào lịch sử hắc ám của Los Angeles để tưởng tượng một địa hình gần
như vô pháp luật nằm dưới trướng những tập đoàn công nghệ.
Sean Young trong Blade Runner (1982)
|
Nhưng cái lâm nguy ở gần như mọi phim hậu tận thế, với sự nhất quán đáng
kể, là ý thức con người trong thời đại trí thông minh nhân tạo. Bám vào
chính nhân tính của chúng ta là trận chiến cho bộ phim nhịp đập, và
công nghệ hiếm khi là đồng minh của chúng ta xét theo mặt đó. Các nhân
vật chính thường bị cắm vào một mạng lưới thần kinh mô phỏng thực tế (
The Matrix), hay là những người máy đã bị lừa mơ như người (
Blade Runner) hay thậm chí yêu như người (
AI: Artificial Intelligence).
Một số là tù nhân của định mệnh mà du hành thời gian không thể cứu (
The Terminator), hay bị cáo buộc những tội ác họ còn chưa phạm phải (
Minority Report). Không lạ là những trải nghiệm thật, thô ráp, được sống qua là một món hàng như trong
Strange Days
(1995) của Kathryn Bigelow, nơi nó được mua bán như đĩa trong chợ đen,
được tải thẳng từ vỏ não. Tro tàn còn lẫn than hồng của nhân loại cần
được bảo vệ cấp bách trong thể loại này trước những thế lực trừ khử nhân
tính sẽ dập tắt chúng — như hình dung của Orwell về tương lai, một
chiếc ủng đạp lên mặt người, đã tiên đoán.
Kaya Scodelario (trái) và Dylan O'Brien trong The Maze Runner (2014)
|
Trong những chuỗi phim cho khán giả trẻ như
The Hunger Games,
The Maze Runner,
Divergent và giờ là
Chaos Walking,
đây là nơi những người hùng tuổi teen nổi loạn bước vào. Một thế hệ già
hơn hoặc là nguồn gốc của thảm họa hoặc đã quy phục ách chuyên quyền từ
lâu. Tuổi trẻ, và hy vọng, bị bóp nghẹt.
Chaos Walking đang hy vọng kết hợp Spider-Man và Rey từ
Star Wars sẽ thuyết phục khán giả một lần nữa nhất tề chống trả.
Nhưng
bộ phim sẽ sống hay chết từ cách nó thể hiện tưởng tượng ra sao — nhất
là khi phần lớn khán giả nhắm tới sẽ chỉ có thể xem nó từ sau chấn song
của chính họ, trước khi việc cách ly hoàn toàn kết thúc.
Chaos Walking đang hy vọng kết hợp Spider-Man và Rey từ Star Wars sẽ thuyết phục khán giả một lần nữa nhất tề chống trả
|
Người xem có thể cảm thấy còn quá sớm để đối mặt với sự u ám hậu tận
thế. Nhưng, về lâu về dài, thể loại này sẽ còn tiếp tục hiện diện, nhắm
tới lay động chúng ta với những ý tưởng ngày càng táo bạo do Covid, và
nhắc nhở chúng ta rằng, ở bất kỳ thời điểm nào, sự hiện hữu bé nhỏ của
chúng ta cũng có thể đơn giản sẽ tắt phụt.
Dịch: © Phương Hà @Quaivatdienhanh.com
Nguồn: The Telegraph