Trung Quốc có một lịch sử làm phim đáng tự hào. Bộ phim Trung Quốc đầu
tiên được làm vào năm 1905, mười năm sau khi điện ảnh được khai sinh ở
Pháp.
Trong hai thập niên tiếp sau đó, điện ảnh Trung Quốc bắt đầu bùng nổ.
Vào thập niên 1920, các thành phố lớn ở Trung Quốc chứng kiến hàng trăm
công ty sản xuất phim được thành lập. Thành phố cảng Thượng Hải đóng vai
trò chủ chốt. Đây là mái nhà của hơn 140 công ty và cũng là nơi sản
sinh ra phim truyện đầu tiên của Trung Quốc.
Trong thập niên 1930
và 1940, Trung Quốc dần chìm vào những thập kỷ hỗn loạn chính trị khi
nước này dính vào những cuộc chiến tranh dai dẳng làm khổ người dân.
Nhưng điện ảnh Trung Quốc vẫn không ngừng phát triển. Các nhà làm phim
chuyển sự chú ý đến hiện thực tàn nhẫn và bắt đầu làm phim với thông
điệp xã hội mạnh mẽ. Thượng Hải lúc đó vẫn là trung tâm sáng tạo. Một số
tác phẩm kinh điển mọi thời đại của điện ảnh Trung Quốc được các công
ty có trụ sở ở Thượng Hải làm ra trong thời kỳ này, như
Crossroads (1937),
Mã lộ thiên sứ (1937) và
Nhất giang xuân thủy hướng đông lưu (1947). Những bộ phim có diễn xuất tốt, khơi gợi suy ngẫm đó ngày nay vẫn còn giá trị.
Cảnh trong phim Crossroads (ảnh trái) và Mã lộ thiên sứ (ảnh phải)
Trong thập niên 1950, tình hình điện ảnh ở Trung Quốc, Hồng Kông và Đài
Loan được đẩy vào kỷ nguyên mới. Nhưng trung tâm dần dần chuyển về Hồng
Kông. Được mệnh danh là “Hollywood phương Đông”, Hồng Kông đã phát triển
hệ thống ngôi sao và các thể loại riêng biệt, cho ra đời những nhà làm
phim nổi tiếng thế giới. Từ thập niên 1970 đến giữa những năm 1990, Hồng
Kông phát triển trở thành khu sản xuất phim lớn thứ hai thế giới sau
Hollywood. Người ta nói có thể tìm được phim Hồng Kông ở bất cứ nơi nào
người Trung Quốc sống trên toàn cầu.
Ở Trung Quốc Đại lục, việc
sản xuất và mua bán phim được chính quyền kiểm soát chặt chẽ sau thập
niên 1950. Sau tiến trình mở cửa và đổi mới được khởi xướng từ cuối thập
niên 1970, hệ thống xưởng phim được nhà nước bao cấp bắt đầu sụp đổ,
buộc các nhà làm phim bước ra thị trường. Vì vậy, các tác phẩm kinh phí
lớn đầy sao nổi lên, nhắm đến lợi nhuận phòng vé. Khán giả lại kéo đến
rạp. Thị trường điện ảnh phát triển nhảy vọt với lượng phòng chiếu tăng
và doanh thu vé bán tăng chóng mặt. Năm 2011, có gần 560 phim dài được
thực hiện ở Trung Quốc, với doanh thu phòng vé đạt hơn hai tỉ USD. Nhưng
phía sau thị trường thịnh vượng này là một bong bóng khổng lồ và lượng
lớn đầu cơ. Bên cạnh đó, chất lượng tác phẩm nhìn chung còn chưa thỏa
mãn.
Trong lịch sử điện ảnh lâu dài của mình, Trung Quốc đã cho
ra đời nhiều nhà làm phim tuyệt vời. Một số tác phẩm của họ sống mãi với
thời gian. Xin giới thiệu mười phim Hoa ngữ, trong đó đa phần là tuyệt
tác, và một hoặc hai tác phẩm thiên về ý nghĩa trong ngành điện ảnh hay
giá trị văn hóa hơn là chất lượng phim.
10. Anh hùng (2002, Trung Quốc)
Nếu muốn chọn một phim đã đẩy cả nền công nghiệp điện ảnh Trung Quốc sang kỷ nguyên mới, đó phải là bom tấn chủ đề thích khách
Anh hùng
năm 2002 của Trương Nghệ Mưu. Theo quy trình sản xuất của Hollywood,
việc sản xuất bộ phim tốn đến 30 triệu USD, trở thành phim Trung Quốc
đắt đỏ nhất thời đó. Bộ phim đã khiến thị trường điện ảnh yếu ớt thời đó
của Trung Quốc hồi xuân bằng cách kéo khán giả trở lại rạp. Tác phẩm
thành công vang dội này thu vào hơn 30 triệu USD tại phòng vé và là phim
đầu tiên đạt mức cao như thế trong nhiều thập niên.
Trên trường
quốc tế, phim được đón nhận nhiệt liệt. Các nhà phê bình đánh giá cao
mặt hình ảnh ấn tượng. Các nhà phân phối hiển nhiên tự tin về tiềm năng
thu hồi vốn của phim. Ở Bắc Mỹ, phim đứng đầu bảng xếp hạng phòng vé ở
hơn 2000 rạp. Nhìn chung, phim đã thu được hơn 120 triệu USD ở thị
trường quốc tế.
Anh hùng đã đặt chuẩn mực cho những tác
phẩm kinh phí lớn tiếp theo về mặt tuyển diễn viên và sản xuất, nhưng
rủi thay, không ở mặt kể chuyện. Hệ quả của việc xem nhẹ cốt truyện đã
dẫn đến các tác phẩm dưới chuẩn được đầu tư ào ạt, xúc phạm trí thông
minh của khán giả như
Vô cực (2005) yểu mệnh của Trần Khải Ca.
9. Đại thoại Tây Du (1994, Trung Quốc / Hồng Kông)
Bộ phim hài
Đại thoại tây du, do Lưu Trấn Vĩ đạo diễn, với sự tham gia của Châu Tinh Trì, Mạc Văn Úy và Ngô Mạnh Đạt, được chia làm hai phần phát hành –
Nguyệt quang bảo hạp và
Tiên lý kỳ duyên. Lưu Trấn Vĩ và Châu Tinh Trì dùng các nhân vật chính từ tiểu thuyết cổ kinh điển
Tây Du Ký
gồm Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng và Đường Tăng để tạo nên câu
chuyện kỳ ảo khó tin này. Hai phim là sự kết hợp giữa các yếu tố vụn vặt
như chuyện tình cảm, kung fu và du hành vượt thời gian.
Chùm
phim này trở thành kinh điển một cách bất ngờ. Khi được phát hành năm
1995, chúng đều là bom xịt. Không chỉ bị phê bình thậm tệ mà doanh thu
phòng vé còn thua xa dự định. Nhưng ba đến năm năm sau, chúng đột ngột
trở nên nổi danh trong giới trẻ. Vài học giả bắt đầu gán nhãn cho phim
là “tác phẩm giải kiến tạo kinh điển hậu hiện đại”. Hai phim đã sản sinh
ra nhiều ám chỉ phổ biến hơn bất cứ phim hiện đại nào khác – nhiều câu
và đoạn thoại trong phim đã thành một phần thiết yếu trong văn hóa phổ
thông Trung Quốc.
Giờ thăm lại hai phim, có người sẽ phàn nàn là
kỹ xảo tồi tàn nhưng không thể phủ nhận chúng vẫn vừa hài hước vừa thắt
lòng. Tác phẩm không xem nhẹ chủ đề tình yêu, mà đặt các nhân vật chính
vào những tình huống tiến thoái lưỡng nan làm người xem phải suy ngẫm.
Châu Tinh Trì thể hiện tài năng thiên bẩm của mình với phim hài trong
các cảnh hài hước và lời thoại đáng nhớ
8. Vô gian đạo (2002, Hồng Kông)
Bộ phim tội phạm-cảnh sát do Lưu Vỹ Cường và Mạch Triệu Huy đạo diễn
được công nhận rộng rãi là đột phá của thể loại phim cảnh sát Hồng Kông.
Phim đã hồi xuân cho thị trường điện ảnh tại đây và khiến người ta hứng
thú với điện ảnh Hồng Kông trở lại.
Vô gian đạo là một
thắng lợi trên nhiều phương diện. Câu chuyện cho các nhân vật ở cả hai
phe nhiều đất để rộng tay phát triển và mang đến hết ngạc nhiên này đến
ngạc nhiên khác. Hai diễn viên chính Lương Triều Vỹ và Lưu Đức Hoa mang
đến màn diễn xuất đỉnh cao khó quên; riêng Lưu Đức Hoa ở phong độ cao
nhất và tỏa sáng hơn trong bất cứ phim nào khác của anh. Bên cạnh đó,
nhạc phim mới mẻ và lúc nào cũng làm khán giả hồi hộp.
Bộ phim ly kỳ thông minh đầy sao này đã có ảnh hướng lớn với Hollywood. Phim truyền cảm hứng cho bản làm lại
The Departed
từng đoạt Oscar Phim xuất sắc nhất và giải Đạo diễn xuất sắc nhất được
trông chờ đã lâu cho đạo diễn bậc thầy Martin Scorsese năm 2007.
7. Ngọa hổ tàng long (2000, Hồng Kông / Đài Loan / Trung Quốc / Mỹ)
Bộ phim kung fu tình cảm này của đạo diễn người Mỹ gốc Trung Quốc Lý An
là một hiện tượng khá tò mò năm 2000. Ở phương Tây phim được khen ngợi
và thành công về mặt thương mại, thu vào gần 130 triệu USD tiền vé chỉ ở
thị trường Bắc Mỹ, đưa Chương Tử Di lên hàng sao quốc tế. Ở Trung Quốc,
phim lại bị khán giả ghẻ lạnh và dẹp qua bên vì ngớ ngẩn về mặt biên
đạo và từ ngữ.
Phản ứng khác nhau hoàn toàn từ hai nền văn hóa
cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Với người Trung Quốc, khá kỳ quặc khi
xem các nhân vật chính trong một bộ phim lẽ ra chỉ toàn đánh đấm lún sâu
vào tình cảm vớ vẩn và dành hầu hết thời gian bay qua bay lại như siêu
nhân. Khán giả phương Tây nghĩ rằng câu chuyện tình yêu phụ thêm nhiều
cho nhân vật phát triển và thích thú với các trường đoạn phi thân giao
đấu.
Dù vậy, hướng tiếp cận của Lý An mang đến chiều sâu ít thấy
cho một tác phẩm múa kiếm và đấm đá. Sư phụ Lý Mộ Bạch, Du Tú Liên, Ngọc
Kiều Long và La Tiểu Hổ là các nhân vật rất nhân bản và đáng tin mà
khán giả có thể tìm thấy mối liên hệ phần nào với bản thân. Trong lúc
đó, biên đạo hấp dẫn không chỉ phụ trợ cho cách kể chuyện mà còn khiến
phim trở nên siêu thực. Trang phục, quay phim, và nhạc phim cũng đỉnh.
Tất cả các yếu tố này làm phim nổi bật giữa các tác phẩm cùng loại.
6. A Phi chính truyện (1990, Hồng Kông)
Bộ phim nghệ thuật do Vương Gia Vệ viết kịch bản và đạo diễn này kể về
chuyện tình giữa sáu thanh niên ở Hồng Kông. Phim có tiếng về một dàn
diễn viên ấn tượng gồm Trương Quốc Vinh, Trương Mạn Ngọc, Lưu Gia Linh,
Trương Học Hữu và Lưu Đức Hoa.
Tác phẩm hoài cổ này là phim đầu
tiên Vương Gia Vệ hợp tác với nhà quay phim Đỗ Khả Phong. Phim tạo
phong cách hình ảnh u sầu trong các tác phẩm sau này của đạo diễn Vương.
Từ đó, hai người đã hợp tác tám phim.
Bộ phim đã thu về vài giải
nặng ký như Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất
và Phim xuất sắc nhất tại Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông lần thứ 10 năm
1991. Phim thường đứng đầu danh sách các phim Hồng Kông hay nhất do các
nhà phê bình tại đây bình chọn.
5. Bi tình thành thị (1989, Đài Loan)
Được đạo diễn người Đài Loan Hầu Hiến Hiền chỉ đạo,
Bi tình thành thị
xoay quanh một gia đình trong thời kỳ Khủng bố trắng của Quốc dân đảng.
Đây là phim đầu tiên đề cập đến sự kiện ngày 28/2/1947, một bước ngoặt
trong lịch sử Đài Loan đã khiến hàng ngàn người chết.
Đạo diễn
Hầu đã thành công trong việc phơi bày bức tranh toàn cảnh về xã hội Đài
Loan thời kỳ đó thông qua một bi kịch gia đình. Phim của ông phản ánh
mâu thuẫn giữa người bản địa và người nhập cư, cùng những cuộc đấu tranh
giữa người dân và Quốc dân Đảng theo cách trầm tĩnh và tinh tế.
Bộ phim được xem là phần đầu trong chuỗi ba phim về lịch sử Đài Loan của Hầu Hiếu Hiền, trong đó có
Hí mộng nhân sinh (1993) và
Hảo nam hảo nữ (1995).
Phim đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim quốc tế Venice lần thứ 46
năm 1989, trở thành phim Hoa ngữ đầu tiên đoạt giải này. Ngoài ra phim
còn được trao giải của UNESCO.
4. Nhất nhất (2000, Đài Loan)
Bộ phim chính kịch dài gần ba tiếng do Dương Đức Xương viết kịch bản và
đạo diễn này kể về cuộc sống của một gia đình trung lưu ở Đài Bắc qua ba
thế hệ. Nhịp phim rất chậm và có vẻ thiếu cao trào nhưng đã diễn tả
được cuộc sống qua ngày chân thực.
Cách quan sát tả thực của đạo
diễn Dương đã đem về cho ông nhiều giải thưởng danh giá trên toàn cầu.
Ông đoạt giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Cannes năm
2000, nơi phim ra mắt. Ông cũng thu thập luôn giải Phim tiếng nước ngoài
xuất sắc nhất của Nghiệp đoàn các nhà phê bình điện ảnh Pháp năm
2001, giải thưởng của Hiệp hội các nhà phê bình điện ảnh Los Angeles
năm 2000 và giải thưởng của Hiệp hội phê bình điện ảnh New York cùng
năm.
Nhất nhất được nhiều ấn phẩm như
USA Today,
The New York Times,
Newsweek và
Film Comment xem là một trong các phim hay nhất năm 2001. Năm 2002, tạp chí
Sight and Sound của Viện điện ảnh Anh Quốc chọn phim này là một trong mười phim hay nhất trong 25 năm qua.
3. Bá Vương biệt cơ (1993, Trung Quốc / Hồng Kông)
Tác phẩm bi kịch của đạo diễn Trần Khải Ca
Bá Vương biệt cơ là
viên ngọc quý của điện ảnh Trung Quốc. Đến nay đây vẫn là phim Hoa ngữ
đầu tiên và duy nhất thắng giải Cành cọ vàng danh tiếng của Cannes. Với
nhiều người, phim vẫn giữ ngôi vương trong làng điện ảnh Trung Quốc.
Chuyển
thể từ tiểu thuyết của Lý Bích Hoa với dàn diễn viên gồm Trương Quốc
Vinh, Củng Lợi và Cát Ưu, bộ phim kinh điển này kể về câu chuyện thăng
trầm của hai diễn viên kinh kịch giữa hỗn loạn xã hội và văn hóa mà
Trung Quốc đã chứng kiến từ những năm 1920 đến 1970. Phim bao trùm thời
kỳ tàn phá của Cách mạng Văn hóa (1966-1976), dẫn đến kết cục bi thương
của tác phẩm. Thú vị hơn, phim bàn thảo chủ đề đồng tính, điều hiếm thấy
trên điện ảnh Trung Quốc.
2. Tiểu thành chi xuân (1948, Trung Quốc)
Câu chuyện tình tay ba này, dựa trên vở kịch ngắn của Lý Thiên Tế, do
Phí Mục đạo diễn và công ty điện ảnh Văn Hoa, một công ty sản xuất phim
tư nhân có trụ sở ở Thượng Hải, sản xuất. Bộ phim tinh tế này, dù thiếu
cốt truyện phức tạp, là một ví dụ tốt cho việc nghiên cứu tâm lý nhân
vật. Phim được đề cao vì đã khai phá cảm xúc của nhân vật trong những
tình huống tế nhị và được xem là tiên phong trong việc sử dụng ngôn ngữ
thơ trong điện ảnh.
Phim nhận được danh tiếng ở cả trong và ngoài
nước. Cộng đồng điện ảnh Trung Quốc đồng tình rằng phim là một tác phẩm
kinh điển vượt thời gian. Đạo diễn nổi tiếng thế giới Trương Nghệ Mưu
thừa nhận
Tiểu thành chi xuân luôn là phim Hoa ngữ ưa thích của
ông. Năm 2005, Hiệp hội giải thưởng điện ảnh Hồng Kông đã gọi bộ phim
là phim Trung Quốc hay nhất từng được sản xuất. Năm 2012, tờ
Winnipeg Free Press của Canada xếp phim ở vị trí thứ nhất trong danh sách mười phim Trung Quốc hay nhất.
1. Nhất giang xuân thủy hướng đông lưu (1947, Trung Quốc)
Bộ phim hai phần, dài hơn ba tiếng, được Thái Sở Sinh và Trịnh Quân Lý
viết kịch bản và đạo diễn này là một cột mốc của điện ảnh Trung Quốc.
Phim kể câu chuyện thắt lòng về một gia đình chịu đau thương ở Thượng
Hải thời loạn trong chiến tranh Trung-Nhật thập niên 1930 và 1940, cũng
như lột tả quá trình chuyển mình đáng kinh ngạc của nhân vật chính diện
từ một chàng trai cầu tiến thành một quan chức gian manh xảo trá.
Bộ
phim thành công lớn tức thì sau khi được ra rạp năm 1947 ở Thượng Hải.
Phim được chiếu ở rạp hơn ba tháng và được biết là đã thu hút hơn
700.000 người xem, khoảng 15% dân số thành phố này lúc đó. Vì vậy, phim
được nhìn nhận rộng rãi là bộ phim thành công nhất trước khi Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949.
Dịch: © Mai Khanh @Quaivatdienanh.com
Nguồn: Chinesefilms.cn
Hãy chia sẻ ý kiến của bạn về bài viết này trên
Facebook của chúng tôi